Năm 1813, Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan từ ngày 6-4 đến vùng đất cũ của Triệu Vũ Đế tức Triệu Đà. Năm 297 TCN, Triệu Đà đánh thắng An Dương Vương sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải. Triệu Đà đã thống nhất các dân tộc Bách Việt vùng Lĩnh Nam, từ lâu đời có chung tiếng nói, phong tục trồng lúa nước , dùng con trâu, cái cày, đội nón lá, có tục ăn trầu, xăm mình, làng mạc có lũy tre, có đình miếu, có phong tục riêng của tộc Việt phương Nam.
Triệu Đà xưng Đế hiệu, liên minh với các
Lạc Hầu, Lạc Tướng xưng Vương tự trị rộng rãi, thành lập một nước gọi là Nam Việt
tồn tại 96 năm từ năm 207 TCN đến 111 TCN, trải qua 5 triều vua. Đất Nam Việt bao gồm
vùng Quảng Đông, Quảng Tây, một phần Vân Nam, Quý Châu và miền Bắc nước ta đến
Nghệ Tĩnh, đóng đô tại Phiên Ngung nay là Quảng Châu.
Triệu Đà là người đầu tiên xưng Đế hiệu độc
lập với nhà Hán, quy tụ dân tộc Bách Việt với một lãnh thổ rộng lớn. Dù ngày
nay một phần lớn lãnh thổ đó không còn nữa, nhưng với nền độc lập gần trăm năm,
nó cũng là một mốc lớn trong lịch sử nước Nam độc lập với phương Bắc.
Ngày nay nước Nam Việt còn để lại những di chỉ khảo cổ phong phú,
những ngôi mộ cổ quy mô với hàng ngàn hiện vật vàng, ngọc, đồng đá.
Nguồn gốc của Triệu Đà còn gây nhiều tranh cãi. Tuy
nhiên, vào thời kỳ này chưa có khái niệm dân tộc Hán, triều Hán. Sau khi
Lưu Bang thành lập, phải trải qua bốn trăm năm đồng hóa các dân tộc khác biệt
người Trung Hoa mới tự nhận mình là người Hán.
Từ triều Hán khởi đầu việc thống nhất
về chữ viết Hán tự, còn gọi là chữ Nho cho các việc quan, ‘ quan thoại ‘ ,
vì từ vùng này sang vùng khác, tiếng nói phát âm khác biệt không hiểu nhau. Tiếng
Quảng Đông, Hải Nam, Triều Châu, Phúc Kiến, Bắc Kinh.. đều không giống nhau.
Vào thời Triệu Đà, Trung Quốc có hơn hàng trăm tiếng nói dân tộc khác biệt.
Cũng như các dân tộc Đông Á khác, người
Việt Nam dùng chữ Nho, tiếng Hán Việt trong việc quan, đình, chùa, dần dà
để phiên âm những tên người, tên đất, còn những phát âm không có trong chữ Hán,
mới hình thành chữ Nôm.
Nền học vấn nước ta từ thời Sĩ Nhiếp được
tôn là ‘Nam Bang học tổ’, cho đến năm 1918, là năm cuối cùng bỏ kỳ thi Hương,
suốt hai ngàn năm đều dùng chữ Hán, cả một kho tàng văn hóa Việt Nam các
sáng tác đều dùng chữ Nho, chữ Nôm chỉ là phần phụ thuộc. Giao Châu, Luy Lâu thời
Tam Quốc loạn lạc là một nơi thanh bình, chùa chiền san sát, giới sĩ phu
Trung Quốc sang tị nạn, nhà sư Tây Trúc dừng chân, nơi đây trở thành
nơi tập trung việc dịch Kinh Phật , phát triển nghề làm giấy và in
kinh.
Phương nam đã biết làm giấy trước
trong khi tại Sơn Tây quê hương đạo Khổng còn chép Tứ Thư, Ngũ Kinh trên
thẻ tre, thanh sử. Các sứ thần nước ta ngày xưa, khi tiếp xúc, hay xướng
họa thơ với các quan Trung Quốc, Triều Tiên, Lưu Cầu hay Nhật Bản đều
phải dùng bút đàm, hay qua người thông dịch. Thi hào Nguyễn Du từng có ba năm
đi thăm Trung Quốc (1787-1790) nói được thông thạo. Chính vì vậy Nguyễn
Du đã được tiếp sứ nhà Thanh là Tề Bồ Sâm năm 1803 sang phong vương vua
Gia Long và làm Chánh Sứ năm 1813. Cụ Phan Bội Châu đầu thế kỷ 20 khi tiếp
xúc với các nhân sĩ Trung Hoa, Nhật Bản thường dùng bút đàm.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, bảy nước lớn mới bị Tần
đánh chiếm năm 221 TCN nên sự phản kháng chống đối giữa các nước khác tiếng nói còn
dữ dội với những trận chiến đẫm máu. Tướng Bạch Khởi giết 400 ngàn hàng binh nước
Triệu hay Hạng Vũ giết 200 ngàn hàng binh nhà Tần trên một địa bàn lãnh
thổ dân số khoảng 20 triệu người là những sự kiện kinh hoàng, chưa mờ phai
trong ký ức thời ấy. Do đó không thể lấy nguồn gốc dân tộc Hán áp đặt lên một
nhân vật có trước đời Hán. Việc Triệu Đà thành lập một quốc gia có chung một
dân tộc Bách Việt có nhiều nhóm, chung tiếng nói, phong tục, không có nghĩa là
người Hán cai trị Bách Việt.
Triệu Đà, có thuyết dựa trên thần phả
làng Đồng Xâm chép ông có tên Nguyễn Cẩn vốn dòng dõi vua Hùng, lấy
vợ Việt làm hoàng hậu Trình thị Lan Nương, người làng Đồng Xâm, tỉnh
Thái Bình, ông đồng hóa với phong tục Việt, xưng mình là người Nam
Di.
Sách sử Trung Quốc chỉ chép ông là người
quê quán ở Chân Định. Nhiều người lại gượng ép địa danh này cho vùng
Chính Định, tỉnh Hà Bắc Trung Quốc. Tuy nhiên trong huyền sử Việt cũng có nói về
bộ Chân Định là một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang thời cổ.
Ngày xưa, người Việt Nam gọi tên người Trung Quốc
tùy theo triều đại : Người Tống, người Minh Hương hay người Ngô. Người
Trung Quốc tại Việt Nam cũng chỉ xưng mình là người Hẹ (Hắc Ka – Hải Nam), người
Tiều (Triều Châu), người Quảng Đông, người Phúc Kiến. Danh xưng người Tàu
chỉ mới xuất hiện đầu thế kỷ 20 do chiến tranh Trung Nhật khiến hàng triệu
người đi tàu vượt biển sang các nước Đông Nam Á. Trước đó có chữ giặc Tàu
Ô có nghĩa là cướp biển đi tàu mang cờ đen.
Triệu Đà là một vị vua sáng suốt, anh minh, được nhân dân
kính phục. Vùng Quảng Châu đời Đường, hơn bảy trăm năm sau, còn kể chuyện hồn
Triệu Đà nhập vào đồng cốt ban lời phán truyền, xử kiện. Triệu Đà trở thành thần,
thành Thành Hoàng nhiều nơi từ vùng Quảng Tây, Quảng Đông đến miền
Bắc nước ta. Người Nam Việt gọi chim Mông Đồng là vua loài chim Việt và ví Triệu
Đà với loài chim quý đó. Ngày nay đi thăm vùng Quảng Tây ta còn thấy khắp
nơi hình ảnh các loài chim vật tổ chim Mông Đồng từng
được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, nhiều nơi có tượng Triệu
Đà.
Không nên lấy khái niệm quốc tịch, dân tộc, quốc gia ngày nay áp dụng vào lịch
sử ngày xưa. Thời Xuân Thu Chiến Quốc đã có những tay du thuyết đi từ nước này
sang nước khác, vị vua nào dùng thì phong tước, họ phục vụ làm đến Đại Thần,
Tể Tướng không có chuyện hỏi quốc tịch. Có những tướng lãnh bỏ
nước này sang nước khác làm tướng, khi thời cơ đến tay thì họ phất cờ xưng
vương, xưng đế. Có những thương nhân đi từ nước này sang nước kia buôn bán, có
người buôn ngọc và buôn cả vua như Lã Bất Vi, cha huyết thống của Tần Thủy
Hoàng. Có những nhà sư Tây Trúc từ núi cao, xuống núi đi dọc theo
sông Dương Tử, sông Hoàng Hà, sông Hồng, sông Cửu Long để truyền đạo.
Các sử gia vùng Trung Nguyên
Hoa Hạ, gọi dân tộc Bách Việt ‘trăm trứng nở trăm con’ này là Nam Di, luôn luôn
kháng cự nhiều lần đánh bại quân đội nhà Tần, nhà Hán. Các sử gia Việt
Nam từ Lê Văn Hưu đều công nhận nhà Triệu là một triều đại nước ta trừ Ngô Thì
Sĩ và gần đây là Đào Duy Anh. Nói đến Triệu Đà chúng ta không quên chuyện Trọng
Thủy, Mỵ Châu, chuyện thành Cổ Loa của vua An Dương Vương. Chiếc nỏ thần thời
An Dương Vương, ngày nay tìm thấy có lẽ là bộ cơ khí đúc bằng đồng
hàng loạt, gắn vào nỏ gỗ, cung tên dàn sẵn, chỉ cần bật cò là hàng loạt
tên tung bay. Những khảo cổ ngày nay tìm được những mộ cổ Triệu Văn Đế, phong
phú với hàng ngàn hiện vật vàng, ngọc, đồng, sắt, đồ gốm, sứ, ấn
vàng xưng đế hiệu, áo chôn nhà vua bằng 2291 mảnh ngọc kết dính lại
bằng tơ đỏ (ti lũ ngọc y), nhiều sản phẩm đến từ Iran, Phi Châu gồm cả thuốc men, thực phẩm, tơ
lụa. Nhà Triệu nước Nam Việt là thời đại hưng thịnh có buôn bán với các nước
Tây Á, Phi Châu, có một nền độc lập với Nhà Hán. Dân tộc Nam Việt có một nền
văn minh, tiếng nói, riêng biệt.
Sử Trung Quốc cũng chỉ công nhận Nam Việt thuộc nhà Hán từ đời Hán Vũ Đế
. Vào năm 111 TCN vua Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đánh nhà Triệu lấy nước
Nam Việt rồi cải là Giao Chỉ Bộ, chia làm 9 quận. Năm 1802 vua Gia Long
sai Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đi sứ, xin công nhận tên nước ta là Nam
Việt, nhưng nhà Thanh không chịu, cải tên thành Việt Nam.
Nguyễn Du đã hiểu rõ nỗi lòng Triệu Đà, một thủ lãnh chính trị khôn ngoan,
khi viết bài thơ ĐẤT CŨ TRIỆU ĐÀ :
Tần Sở bạo cường cũng nát tan,
Ung dung khiêm tốn giữ trời Nam.
Ngôi cao hoàng đế xưng tùy
thích,
Tiếp đãi nhà nho biết nhịn nhường.
Đài cao Lĩnh Biểu ngoài kia đổ,
Mộ cũ Phiên Ngung một nấm còn,
Thương biết bao nhiêu triều đại đổ,
Không bằng được cảnh Lão Già Man.
Trong khi Triệu Vũ Đế gây dựng cơ nghiệp ở Nam Việt thì ở vùng Trung Nguyên,
Lưu Bang trừ được nhà Tần, diệt được Sở Bá Vương Hạng Vũ, thống nhất thiên hạ
lên ngôi Hoàng đế tức vua Cao Tổ nhà Hán.
“Năm 183 TCN vua Cao Tổ nhà Hán mất rồi, bà Lữ Hậu lâm triều tranh quyền Huệ Đế,
rồi lại nghe lời dèm pha, cấm không cho người Hán buôn bán những đồ vàng bạc, đồ
sắt và những đồ điền khí cho người Nam Việt. Triệu Đà lấy làm tức giận, lại
ngờ cho Trường Sa Vương xui Lữ Hậu làm như vậy bèn tự lập làm Nam Việt Hoàng đế,
rồi cử binh mã sang đánh quận Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.
Năm 181 TCN, Hán Triều sai tướng
đem quân đánh Nam Việt. Quân nhà Hán chịu không được phong thổ phương Nam, nhiều
người mắc bệnh tật, bởi vậy phải thua chạy về Bắc. Từ đó thanh thế Triệu Vũ Đế
lừng lẫy, đi đâu dùng xe ngựa theo nghi vệ Hoàng Đế như vua nhà Hán .
Triệu Vũ Đế truyền ngôi lại cho cháu đích tôn tên là Hồ tức Triệu Văn Đế
(137-125 TCN) trị vì được 12 năm. Triệu Văn Đế vốn là người tầm thường, tính
khí nhu nhược không được như Triệu Vũ Đế, khi mới lên làm vua được hai
năm, vua Mân Việt (tỉnh Phúc Kiến) đem quân sang đánh phá chỗ biên thùy nước
Nam Việt. Triệu Văn Đế không dám đem binh mã chống cự mà sai sứ sang cầu cứu
triều Hán. Vua Hán sai Vương Khôi và Hàn An Quốc đi đánh Mân Việt. Quân Mân Việt
thấy quân Hán đến nơi, nên bắt vua Mân Việt giết đi đem đầu nộp nhà Hán. Mân Việt
đã bình rồi. vua Hán sai Trang Trợ sang chiêu dụ Triệu Văn Đế sang chầu, nhưng quần
thần xin đừng đi. Vua Triệu Văn Đế bèn sai Thái Tử Anh Tề đi thay. Anh Tề ở bên
triều Hán mười năm, đến khi Triệu Văn Đế mất mới về nối ngôi. Thái Tử Anh Tề
làm vua tức Triệu Minh Đế (125-113 TCN), trị vì 12 năm. Anh Tề khi
làm con tin ở Hán có lấy vợ là Cù Thị, khi lên làm vua lập Cù Thị làm Hoàng Hậu
và con làm Thái Tử. Triệu Minh Đế mất, Thái Tử Hưng lên làm vua tức Triệu Ai Đế
trị vì được một năm. Nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quí sang dụ Nam Việt về chầu.
Thiếu Quí trước là tình nhân của Cù Thị, đến khi sang Nam Việt gặp nhau tư
thông với nhau và dỗ dành Ai Đế đem nước Nam Việt dâng nhà Hán.
Tể Tướng Lữ Gia biết rõ tình ý khuyên ngăn
không được, truyền hịch và đem quân giết sứ nhà Hán, Cù Thị và Ai Đế. Rồi Lữ
Gia tôn con trưởng của Triệu Minh Đế là Triệu Kiến Đức với mẹ người Nam Việt
lên làm vua. Triệu Kiến Đức lấy hiệu là Triệu Dương Đế, tại vị được một
năm thì vua Vũ Đế nhà Hán sai Phục Ba tướng Quân, Lộ Bác Đức đem năm đạo quân
sang đánh Nam Việt. Lữ Gia chống cự không lại cùng vua rút lui, đều bị bắt giết.
Năm 111 TCN nước Nam Việt bị người Tàu chiếm lấy cải là Giao Chỉ bộ chia làm
chín quận đặt quan cai trị.
Thời Tam Quốc, Tôn Quyền cho người tìm mộ nhà Triệu, và đã tìm ra được mộ
Anh Tề và lấy được nhiều vật quý. Mộ Triệu Đà cho đến nay vẫn chưa tìm được.
Tháng 8 năm 1980, tại gò Tượng Cương ở Quảng Châu, nhân việc đào đất xây chung
cư đã tìm ra được mộ Triệu Văn Đế, cháu nội kế vị Triệu Đà với chiếc ấn
vàng ‘Văn Đế Hành Tỉ’ và hàng ngàn hiện vật quý trong mộ táng, xác ướp được mặc
chiếc áo bằng ngọc từng miếng vuông kết dây vàng.
Các bạn thân mến !
Nhà Triệu là triều đại tập họp các dân tộc Bách Việt đầu tiên việc kế thừa
truyền cho con cháu. Trước đó nước ta các vua Hùng kế thừa bằng các cuộc
thi : thi nấu ăn như sự tích bánh dày bánh chưng, thi dâng lễ vật như chuyện
Sơn Tinh Thủy Tinh, thi đấu vật.
Các di chỉ khảo cổ cho thấy nhà
Triệu tại Quảng Châu ngàn năm trước đó đã có một tổ chức xã hội khá cao
vá quy củ. Có giao thương buôn bán với các nước Ba Tư (Iran), Ấn Độ, Phi Châu.
Trước sự bành trướng của nhà Hán, vùng
Quảng Đông, Quảng Tây là những lãnh thổ dân tộc Bách Việt bị đồng hóa. Nước
ta không có sách sử ghi chép nhiều những sự kiện trước thời nhà Lý. Việc tìm kiếm
những tư liệu về các dân tộc vùng Bách Việt, về nước ta thời Bắc Thuộc:
Tam Quốc Tôn Quyền cai trị, thời nhà Đường, nhà Tùy cai trị trong sách sử
Trung Quốc là những việc cần thiết để hiểu hơn một giai đoạn trong lịch sử Việt
Nam.