So sánh về diện tích, Nhật Bản chỉ lớn hơn Việt Nam đôi chút. Tuy nhiên, Nhật Bản lại nằm cách đại lục Trung Hoa thông qua eo biển. Khoảng cách này vừa đủ gần để Nhật có thể tiếp thu văn hoá Trung Hoa trước thời cận đại nhưng cũng vừa đủ xa để tránh khỏi bị nước này xâm lấn. Trong thái độ của Nhật Bản đối với văn hoá Trung Hoa có hai khuynh hướng khá rõ rệt: kính phục và phủ nhận.
Từ khi tiếp xúc với văn minh Trung Hoa,
người Nhật thường biểu lộ lòng hâm mộ và kính phục đối với nền văn hoá đại lục.
Triều đình Nhật Bản lúc bấy giờ chọn lựa những người tài giỏi và gửi họ sang
Trung Quốc thành nhiều phái bộ (mỗi phái bộ thường có đến 500 người) để học hỏi
và tiếp thu nền văn hoá tiên tiến Trung Hoa dưới hai triều đại Tuỳ và Đường.
Họ học đủ mọi ngành: Nho giáo, Phật giáo, cơ
chế chính trị, hình luật, kỹ thuật canh nông, mỹ thuật, v.v... Những người này
sau khi trở về Nhật đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền bá những yếu
tố tiên tiến của văn minh Trung Hoa. Chữ karamono 唐 物 - Đường-vật ( những vật
đem từ nhà Đường, hàm ý Trung Quốc) là danh từ tượng trưng cho những cái gì tao
nhã, quý giá lúc bấy giờ.
Đi ngược lại với khuynh hướng hâm mộ văn
hoá Trung Quốc là ý thức dân tộc của người Nhật. Nếu danh tướng Lý Thường Kiệt
của Việt Nam đã viết nên bài thơ “Nam quốc sơn hà” nhằm khẳng định vị trí “nước
Nam” của người Việt đối với Trung Quốc ở phương Bắc thì Thái tử Shôtoku
(Thánh-đức) ngay từ đầu thế kỷ VII khi viết thư gửi Tuỳ Dạng Đế thay cho thiên
hoàng Nhật đã xác định chủ quyền của Nhật Bản về phía Đông của Trung Quốc như
sau: “Thư này do thiên tử của xứ mặt trời mọc (phương Đông) gửi cho thiên tử của
xứ mặt trời lặn (phương Tây)”.
Tương truyền, hoàng đế Trung Hoa khi đó là
Tuỳ Dạng Đế khi đọc lá thư đã nổi trận lôi đình, cho rằng kẻ viết thư đã quá ngạo
mạn, không biết nghi lễ trên dưới. Trong bức thư gửi hoàng đế nhà Tuỳ, Thái tử
Shôtoku không những gọi hoàng đế của Trung Quốc bằng “thiên tử” (con trời) mà
còn dùng danh xưng này để gọi thiên hoàng của Nhật.
Theo quan niệm của Trung Quốc, trong
thiên hạ (dưới cõi trời) chỉ có một thiên tử “độc nhất vô nhị”, đó chính là
hoàng đế Trung Quốc. Tuỳ Dạng Đế nổi giận chính vì bức thư của Nhật Bản đã cố
tình hay vô ý bất chấp khái niệm căn bản của trật tự thế giới Trung Hoa.
Yoshimitsu (1358-1408), vị tướng quân thứ ba
của dòng họ Ashikaga, là nhân vật duy nhất trong lịch sử Nhật thừa nhận tước
phong “quốc vương Nhật Bản” của hoàng đế Trung Quốc ban cho và do đó đã đặt Nhật
Bản vào thế triều cống Trung Quốc trong thời kỳ ông nắm quyền. Do sự kiện này,
Yoshimitsu đã bị các sử gia đời sau phê phán là đã làm nhục quốc thể của Nhật Bản.
Từ cuối thế kỷ IX, ở Trung Quốc loạn lạc
nổi lên khắp nơi, Nhật Bản đình chỉ việc gửi người sang Trường An du học và
thay vào đó tìm cách biến cải những yếu tố văn hoá Trung Hoa mà Nhật đã tiếp
thu từ mấy trăm năm trước cho thích ứng với môi trường văn hoá và xã hội của Nhật
Bản.
Vào thời kỳ này “văn học nữ lưu” viết bằng
tiếng kana rất thịnh hành, có nhiều tác phẩm văn học vẫn còn nổi tiếng cho đến
ngày nay, tiêu biểu là cuốn trường thiên tiểu thuyết Truyện Genji do nữ sĩ
Murasaki sáng tác vào đầu thế kỷ XI. Sự vùng dậy của ý thức dân tộc Nhật Bản
còn thể hiện qua các tranh vẽ theo lối Nhật yamato-e (Đại-hoà hội), và sự xuất
hiện của danh từ yamato-damashii (hồn Đại-hoà), tức là tinh thần Nhật Bản –ngụ
ý để phân biệt với tinh thần Trung Hoa.
Nhật Bản đã tiếp thu và hấp thụ nhiều yếu
tố của văn hoá Trung Hoa nhưng Nhật Bản không có liên hệ triều cống với Trung
Quốc và không chấp nhận trật tự thế giới của Trung Quốc. Kết quả là mặc dầu người
Nhật vay mượn nhiều yếu tố của văn hoá Trung Hoa, nhưng có tư duy độc lập,
không suy nghĩ theo những khuôn mẫu của văn hoá Trung Hoa.
Mặt khác, thái độ “kính phục” và “phủ nhận”
của người Nhật đối với văn hoá Trung Hoa thể hiện rõ nhất qua lối nhìn của họ đối
với nhà thơ Trung Quốc Bạch Lạc Thiên và học thuyết Nho giáo.
Bạch Lạc Thiên, tên thật là Bạch Cư Dị
(772-846 sau CN), là một thi hào đời Đường. Không hiểu do một sự tình cờ nào mà
tên tuổi của Bạch Lạc Thiên ở Nhật lại còn nổi tiếng hơn cả Lý Bạch và Đỗ Phủ,
hai nhà thơ được mến chuộng nhất ở Trung Quốc. Trải qua bao thế kỷ, người Nhật
Bản nào muốn làm thơ chữ Hán trước hết cũng phải nghiền ngẫm thơ Bạch Lạc
Thiên, vì đối với họ, họ Bạch là vị “thánh thơ chữ Hán”.
Nhưng nhà thơ tiêu biểu cho thi đàn Trung Quốc
ở Nhật này có lúc cũng bị phủ nhận. Đó là trường hợp tuồng Bạch Lạc Thiên, một
trong những vở tuồng Nô nổi tiếng của Nhật Bản vào thế kỷ XIV. Trên thực tế, Bạch
Lạc Thiên thuở sinh tiền không hề đặt chân lên đất Nhật Bản. Tuy nhiên theo cốt
truyện của vở tuồng này, một hôm nọ hoàng đế Trung Quốc phái Bạch Lạc Thiên
sang Nhật để cho người Nhật thấy tận mắt tài làm thơ thần sầu quỷ khốc của người
Tàu. Khi thuyền cập bến ở Nhật, họ Bạch gặp hai ngư ông. Bạch Lạc Thiên trổ tài
làm thơ, nào ngờ trong hai ngư ông Nhật Bản lại có người làm thơ còn giỏi hơn cả
họ Bạch nữa. Cuối cùng, trong cuộc đấu thơ này, Bạch Lạc Thiên bị thua. Ngư ông
đó hoá ra là “vị thần làm thơ” (uta no kami) của người Nhật. Thuyền của Bạch Lạc
Thiên bị bão đánh giạt về Trung Quốc, và vở tuồng chấm dứt ở đó.
Nay ta thử xem thái độ “kính nể và phủ
nhận” của người Nhật đối với Nho giáo. Đức-xuyên Gia-khang người sáng lập chính
quyền Tokugawa (1600-1868), đã áp dụng học thuyết Tống Nho của Chu Hy để củng cố
chính quyền mạc phủ. Tống học nhờ vậy trên lý thuyết trở thành học phái chính
thống.
Nhưng trên thực tế, dưới thời mạc phủ có nhiều
Nho gia như Yamaga và Ansai đã phủ nhận cơ chế Nho giáo của Trung Quốc. Họ cho
rằng về cả ba mặt nhân, trí, dũng, Nho giáo Nhật Bản hơn hẳn Trung Quốc. Ngay đối
với Khổng Tử, cách đặt vấn đề của Ansai cũng khác hẳn các nhà Nho ở Trung Quốc
và Việt Nam.
Sách Tiên-triết Tùng-đàm biên soạn cuối
thời mạc phủ có ghi lại đoạn vấn đáp sau đây giữa Ansai và các môn đệ. Ansai một
hôm hỏi các môn đệ:
“Nếu bây giờ Trung Quốc cử Khổng Tử làm
đại tướng và Mạnh Tử làm phó tướng dẫn vài vạn kỵ binh sang tấn công nước ta, với
tư cách là người theo học đạo của Khổng Mạnh, các trò thử nghĩ chúng ta phải ứng
xử như thế nào?”
Thấy các môn đệ lúng túng, Ansai tự đáp:
“Nếu điều bất hạnh này xảy ra, thì chúng ta chỉ có cách là mặc giáp mang kiếm,
ra trận bắt sống Khổng Mạnh đặng báo ơn nước. Đây chính là điều Khổng Mạnh dạy
chúng ta”
Chắc hẳn đối với các Nho gia Việt Nam, phản ứng
đầu tiên khi nghe đoạn vấn đáp này là: “Đối với các bậc thánh hiền ai lại đặt
câu hỏi kỳ cục như thế?”. Cách đặt câu hỏi của Ansai đã lạ lùng, khó nghe, mà
câu trả lời của Ansai cũng không kém phần bất ngờ, đường đột. Phải là một “Nho
gia” không bị chi phối bởi thế giới quan Nho giáo của Trung Hoa mới có đủ tính
khách quan để đặt vấn đề trực tiếp và tận gốc như vậy.
Vị trí lãnh đạo về văn hoá của Trung Quốc
cũng bị các học phái Quốc-học (Kokugaku) và Lan-học (Rangaku) phủ nhận tận gốc. Norinaga và các học giả của
học phái Quốc học khởi đầu nghiên cứu Hán học, nhưng sau đó chủ trương chối bỏ
triệt để “tư tưởng Trung Hoa” (karagokoro) thể hiện qua những lý lẽ gò bó và
nhân tạo của Nho giáo, sự sai lạc và tính chất quá khích của thuyết “thiên mệnh”
. Theo Norinaga, trước khi văn minh Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, tâm hồn người
Nhật thuần phác và bộc trực, được thể hiện qua những thơ ca trong tuyển tập thơ
đầu tiên của người Nhật là Man’yôshu (Vạn-diệp-tập; biên soạn xong năm 760 sau
CN). Học phái Quốc học đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm sống dậy tinh
thần dân tộc của người Nhật vào thế kỷ XIX.
Lan học, học phái nghiên cứu khoa học và kỹ
thuật Tây phương qua những sách bằng tiếng Hà Lan vào cuối thế kỷ XVIII cũng có
đóng góp không ít vào việc phủ nhận vị trí độc tôn của văn hoá Trung Hoa. Y học
là ngành nghiên cứu nổi tiếng nhất của các học giả lan học. Vào năm 1711, khi
hai học giả lan học là Sugita và Maeno quan sát cuộc giải phẫu tử thi ở nhà tù,
họ cho rằng những gì họ quan sát hoàn toàn phù hợp với quyển sách Tabulae
Anatomicae bằng tiếng Hà Lan và từ đó họ
thấy rằng những lý thuyết y học Trung Quốc du nhập vào Nhật trước đó là hoàn
toàn sai lạc. Bản dịch của sách này nhan đề là Giải-thể tân-thư (Kaitai shinsho
) được hoàn thành vào năm 1774. Công trình nghiên cứu và dịch thuật của Sugita
có ảnh hưởng vượt khỏi ngành y học, báo hiệu giờ phút cáo chung của vai trò
lãnh đạo văn hoá Trung Hoa trong đời sống
tư tưởng và học thuật ở Nhật đã bắt đầu.
No Comment