THÁI ĐỘ CỦA NHẬT BẢN VỚI VĂN HÓA TRUNG HOA: KÍNH PHỤC VÀ PHỦ NHẬN Thái Tử Sin TV Wednesday, October 21, 2020 No Comment

So sánh về diện tích, Nhật Bản chỉ lớn hơn Việt Nam đôi chút. Tuy nhiên, Nhật Bản lại nằm cách đại lục Trung Hoa thông qua eo biển. Khoảng cách này vừa đủ gần để Nhật có thể tiếp thu văn hoá Trung Hoa trước thời cận đại nhưng cũng vừa đủ xa để tránh khỏi bị nước này xâm lấn. Trong thái độ của Nhật Bản đối với văn hoá Trung Hoa có hai khuynh hướng khá rõ rệt: kính phục và phủ nhận.

Từ khi tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, người Nhật thường biểu lộ lòng hâm mộ và kính phục đối với nền văn hoá đại lục. Triều đình Nhật Bản lúc bấy giờ chọn lựa những người tài giỏi và gửi họ sang Trung Quốc thành nhiều phái bộ (mỗi phái bộ thường có đến 500 người) để học hỏi và tiếp thu nền văn hoá tiên tiến Trung Hoa dưới hai triều đại Tuỳ và Đường.



Họ học đủ mọi ngành: Nho giáo, Phật giáo, cơ chế chính trị, hình luật, kỹ thuật canh nông, mỹ thuật, v.v... Những người này sau khi trở về Nhật đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền bá những yếu tố tiên tiến của văn minh Trung Hoa. Chữ karamono - Đường-vật ( những vật đem từ nhà Đường, hàm ý Trung Quốc) là danh từ tượng trưng cho những cái gì tao nhã, quý giá lúc bấy giờ.



Đi ngược lại với khuynh hướng hâm mộ văn hoá Trung Quốc là ý thức dân tộc của người Nhật. Nếu danh tướng Lý Thường Kiệt của Việt Nam đã viết nên bài thơ “Nam quốc sơn hà” nhằm khẳng định vị trí “nước Nam” của người Việt đối với Trung Quốc ở phương Bắc thì Thái tử Shôtoku (Thánh-đức) ngay từ đầu thế kỷ VII khi viết thư gửi Tuỳ Dạng Đế thay cho thiên hoàng Nhật đã xác định chủ quyền của Nhật Bản về phía Đông của Trung Quốc như sau: “Thư này do thiên tử của xứ mặt trời mọc (phương Đông) gửi cho thiên tử của xứ mặt trời lặn (phương Tây)”.  

Tương truyền, hoàng đế Trung Hoa khi đó là Tuỳ Dạng Đế khi đọc lá thư đã nổi trận lôi đình, cho rằng kẻ viết thư đã quá ngạo mạn, không biết nghi lễ trên dưới. Trong bức thư gửi hoàng đế nhà Tuỳ, Thái tử Shôtoku không những gọi hoàng đế của Trung Quốc bằng “thiên tử” (con trời) mà còn dùng danh xưng này để gọi thiên hoàng của Nhật.  

Theo quan niệm của Trung Quốc, trong thiên hạ (dưới cõi trời) chỉ có một thiên tử “độc nhất vô nhị”, đó chính là hoàng đế Trung Quốc. Tuỳ Dạng Đế nổi giận chính vì bức thư của Nhật Bản đã cố tình hay vô ý bất chấp khái niệm căn bản của trật tự thế giới Trung Hoa.

Yoshimitsu (1358-1408), vị tướng quân thứ ba của dòng họ Ashikaga, là nhân vật duy nhất trong lịch sử Nhật thừa nhận tước phong “quốc vương Nhật Bản” của hoàng đế Trung Quốc ban cho và do đó đã đặt Nhật Bản vào thế triều cống Trung Quốc trong thời kỳ ông nắm quyền. Do sự kiện này, Yoshimitsu đã bị các sử gia đời sau phê phán là đã làm nhục quốc thể của Nhật Bản.

Từ cuối thế kỷ IX, ở Trung Quốc loạn lạc nổi lên khắp nơi, Nhật Bản đình chỉ việc gửi người sang Trường An du học và thay vào đó tìm cách biến cải những yếu tố văn hoá Trung Hoa mà Nhật đã tiếp thu từ mấy trăm năm trước cho thích ứng với môi trường văn hoá và xã hội của Nhật Bản.

Vào thời kỳ này “văn học nữ lưu” viết bằng tiếng kana rất thịnh hành, có nhiều tác phẩm văn học vẫn còn nổi tiếng cho đến ngày nay, tiêu biểu là cuốn trường thiên tiểu thuyết Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki sáng tác vào đầu thế kỷ XI. Sự vùng dậy của ý thức dân tộc Nhật Bản còn thể hiện qua các tranh vẽ theo lối Nhật yamato-e (Đại-hoà hội), và sự xuất hiện của danh từ yamato-damashii (hồn Đại-hoà), tức là tinh thần Nhật Bản –ngụ ý để phân biệt với tinh thần Trung Hoa.

Nhật Bản đã tiếp thu và hấp thụ nhiều yếu tố của văn hoá Trung Hoa nhưng Nhật Bản không có liên hệ triều cống với Trung Quốc và không chấp nhận trật tự thế giới của Trung Quốc. Kết quả là mặc dầu người Nhật vay mượn nhiều yếu tố của văn hoá Trung Hoa, nhưng có tư duy độc lập, không suy nghĩ theo những khuôn mẫu của văn hoá Trung Hoa.

Mặt khác, thái độ “kính phục” và “phủ nhận” của người Nhật đối với văn hoá Trung Hoa thể hiện rõ nhất qua lối nhìn của họ đối với nhà thơ Trung Quốc Bạch Lạc Thiên và học thuyết Nho giáo.  

Bạch Lạc Thiên, tên thật là Bạch Cư Dị (772-846 sau CN), là một thi hào đời Đường. Không hiểu do một sự tình cờ nào mà tên tuổi của Bạch Lạc Thiên ở Nhật lại còn nổi tiếng hơn cả Lý Bạch và Đỗ Phủ, hai nhà thơ được mến chuộng nhất ở Trung Quốc. Trải qua bao thế kỷ, người Nhật Bản nào muốn làm thơ chữ Hán trước hết cũng phải nghiền ngẫm thơ Bạch Lạc Thiên, vì đối với họ, họ Bạch là vị “thánh thơ chữ Hán”.

Nhưng nhà thơ tiêu biểu cho thi đàn Trung Quốc ở Nhật này có lúc cũng bị phủ nhận. Đó là trường hợp tuồng Bạch Lạc Thiên, một trong những vở tuồng Nô nổi tiếng của Nhật Bản vào thế kỷ XIV. Trên thực tế, Bạch Lạc Thiên thuở sinh tiền không hề đặt chân lên đất Nhật Bản. Tuy nhiên theo cốt truyện của vở tuồng này, một hôm nọ hoàng đế Trung Quốc phái Bạch Lạc Thiên sang Nhật để cho người Nhật thấy tận mắt tài làm thơ thần sầu quỷ khốc của người Tàu. Khi thuyền cập bến ở Nhật, họ Bạch gặp hai ngư ông. Bạch Lạc Thiên trổ tài làm thơ, nào ngờ trong hai ngư ông Nhật Bản lại có người làm thơ còn giỏi hơn cả họ Bạch nữa. Cuối cùng, trong cuộc đấu thơ này, Bạch Lạc Thiên bị thua. Ngư ông đó hoá ra là “vị thần làm thơ” (uta no kami) của người Nhật. Thuyền của Bạch Lạc Thiên bị bão đánh giạt về Trung Quốc, và vở tuồng chấm dứt ở đó.

Nay ta thử xem thái độ “kính nể và phủ nhận” của người Nhật đối với Nho giáo. Đức-xuyên Gia-khang người sáng lập chính quyền Tokugawa (1600-1868), đã áp dụng học thuyết Tống Nho của Chu Hy để củng cố chính quyền mạc phủ. Tống học nhờ vậy trên lý thuyết trở thành học phái chính thống.  

Nhưng trên thực tế, dưới thời mạc phủ có nhiều Nho gia như Yamaga và Ansai đã phủ nhận cơ chế Nho giáo của Trung Quốc. Họ cho rằng về cả ba mặt nhân, trí, dũng, Nho giáo Nhật Bản hơn hẳn Trung Quốc. Ngay đối với Khổng Tử, cách đặt vấn đề của Ansai cũng khác hẳn các nhà Nho ở Trung Quốc và Việt Nam.

Sách Tiên-triết Tùng-đàm biên soạn cuối thời mạc phủ có ghi lại đoạn vấn đáp sau đây giữa Ansai và các môn đệ. Ansai một hôm hỏi các môn đệ:

“Nếu bây giờ Trung Quốc cử Khổng Tử làm đại tướng và Mạnh Tử làm phó tướng dẫn vài vạn kỵ binh sang tấn công nước ta, với tư cách là người theo học đạo của Khổng Mạnh, các trò thử nghĩ chúng ta phải ứng xử như thế nào?”

Thấy các môn đệ lúng túng, Ansai tự đáp: “Nếu điều bất hạnh này xảy ra, thì chúng ta chỉ có cách là mặc giáp mang kiếm, ra trận bắt sống Khổng Mạnh đặng báo ơn nước. Đây chính là điều Khổng Mạnh dạy chúng ta”  

Chắc hẳn đối với các Nho gia Việt Nam, phản ứng đầu tiên khi nghe đoạn vấn đáp này là: “Đối với các bậc thánh hiền ai lại đặt câu hỏi kỳ cục như thế?”. Cách đặt câu hỏi của Ansai đã lạ lùng, khó nghe, mà câu trả lời của Ansai cũng không kém phần bất ngờ, đường đột. Phải là một “Nho gia” không bị chi phối bởi thế giới quan Nho giáo của Trung Hoa mới có đủ tính khách quan để đặt vấn đề trực tiếp và tận gốc như vậy.

Vị trí lãnh đạo về văn hoá của Trung Quốc cũng bị các học phái Quốc-học (Kokugaku) và Lan-học (Rangaku)  phủ nhận tận gốc. Norinaga và các học giả của học phái Quốc học khởi đầu nghiên cứu Hán học, nhưng sau đó chủ trương chối bỏ triệt để “tư tưởng Trung Hoa” (karagokoro) thể hiện qua những lý lẽ gò bó và nhân tạo của Nho giáo, sự sai lạc và tính chất quá khích của thuyết “thiên mệnh” . Theo Norinaga, trước khi văn minh Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, tâm hồn người Nhật thuần phác và bộc trực, được thể hiện qua những thơ ca trong tuyển tập thơ đầu tiên của người Nhật là Man’yôshu (Vạn-diệp-tập; biên soạn xong năm 760 sau CN). Học phái Quốc học đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm sống dậy tinh thần dân tộc của người Nhật vào thế kỷ XIX.

Lan học, học phái nghiên cứu khoa học và kỹ thuật Tây phương qua những sách bằng tiếng Hà Lan vào cuối thế kỷ XVIII cũng có đóng góp không ít vào việc phủ nhận vị trí độc tôn của văn hoá Trung Hoa. Y học là ngành nghiên cứu nổi tiếng nhất của các học giả lan học. Vào năm 1711, khi hai học giả lan học là Sugita và Maeno quan sát cuộc giải phẫu tử thi ở nhà tù, họ cho rằng những gì họ quan sát hoàn toàn phù hợp với quyển sách Tabulae Anatomicae bằng tiếng Hà Lan  và từ đó họ thấy rằng những lý thuyết y học Trung Quốc du nhập vào Nhật trước đó là hoàn toàn sai lạc. Bản dịch của sách này nhan đề là Giải-thể tân-thư (Kaitai shinsho ) được hoàn thành vào năm 1774. Công trình nghiên cứu và dịch thuật của Sugita có ảnh hưởng vượt khỏi ngành y học, báo hiệu giờ phút cáo chung của vai trò lãnh đạo văn hoá  Trung Hoa trong đời sống tư tưởng và học thuật ở Nhật đã bắt đầu.

 

by Thái Tử Sin

Chào mừng các bạn đến với kênh website Thái Tử Sin TV. - $$$ DONATE: Mọi ủng hộ tài chính để phát triển kênh Thái Tử Sin TV vui lòng gửi tới tài khoản Techcombank: 19021947007023 - Chủ TK: Nguyen Thi Lang

Theo dõi trên các nền tảng khác Twitter | Facebook | Google Plus

No Comment