Văn hóa Lương Chử (3400-2250 TCN) là nền văn hóa ngọc thạch tại châu thổ sông Trường Giang. Nền văn hóa này có sự phân tầng ở mức độ cao, các đồ tạo tác từ ngọc thạch, tơ lụa, ngà voi được phát hiện trong các ngôi mộ của tầng lớp trên, còn những cá nhân nghèo khó hơn thường được chôn cất cùng với đồ gốm.
Di
tích khảo cổ Lương Chử minh họa sự chuyển đổi từ các xã hội thời kỳ đồ đá mới
sang một mô hình chính trị bao gồm hệ thống phân chia giai cấp, nghi lễ và nghề
thủ công.
Nói chung ở đây đã xuất hiện hình thái của một
quốc gia với quá trình đô thị hóa được thể hiện trong các di tích bằng đất, hệ
thống quy hoạch thành phố và cảnh quan, hệ thống phân cấp xã hội thể hiện ở sự
khác biệt về nghi thức chôn cất trong các nghĩa trang. Nền văn hóa này đại diện
cho một nền văn minh trồng lúa cổ xưa tại Đông Á ở miền Nam sông Dương Tử hơn
5.000 năm trước. Và đây cũng một nền văn
minh đô thị cổ xưa của nhân loại.
Nền văn hóa Lương Chử sở hữu các hoạt động
nông nghiệp tiên tiến, bao gồm thủy lợi, các hình thức ruộng lúa và nuôi thủy sản.
Các ngôi nhà của cư dân thường được xây dựng với các cột sàn trên sông hoặc tại
bờ biển. Hệ thống trữ nước ngoại vi với các chức năng phức tạp và nghĩa trang
được phân cấp xã hội (bao gồm cả bàn thờ) và các vật thể bằng ngọc được khai quật
tượng trưng cho tín ngưỡng của nền văn hóa này, chứng minh các dân tộc ở lưu vực
sông Dương Tử đã có nền văn minh rất sớm của riêng mình.
Ngày 29 Tháng 11 năm 2007 tại Hàng Châu, các nhà khảo cổ học
thông báo đã tìm thấy di chỉ thành phố cổ
diện tích hơn 2,9 km2, niên đại hơn 5.000 năm trong vùng lõi của khu di tích
Lương Chử. Thành phố cổ có bức thành theo hướng đông tây dài 1.500-1.700 m, chiều
Bắc-Nam khoảng 1.800 - 1.900 mét, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của bức
thành còn lại cao 4 mét, mặt cắt 40 mét bề mặt, đáy 60 mét, làm bằng đất hoàng
thổ nguyên chất đưa từ nơi khác tới, được đầm nén kỹ. Dấu vết kho lương thực chứa
được khoảng 15 tấn gạo. Từ vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ
được phát hiện, các chuyên gia tin rằng có những cung điện giành cho nhà vua và
giới quý tộc.
Năm 2017, các nhà khảo cổ học lại phát hiện
một hệ thống thủy lợi có niên đại tới 5.100 năm, quy mô khổng lồ và cổ xưa nhất
trên thế giới tính đến thời điểm hiện nay. Công trình dẫn nước quy mô 5.100 năm
tuổi thậm chí còn lâu đời hơn cả phát hiện hệ thống thủy lợi 4.900 năm trước
đây của Văn minh Lưỡng Hà. Đây là công trình thủy lợi khổng lồ, có diện tích hơn 300.000 m2,
được xây đắp nhân tạo bằng hoàng thổ dày tới 10,2 mét. Những cư dân cổ đại được
cho là đã di dời khoảng 3,3 triệu mét khối đất để xây nên công trình này. Đây
là một hệ thống thủy lợi rất phức tạp, gồm nhiều đập nước cao, đập nước thấp,
mương, rạch, hào lớn và đê điều để ngăn ngừa lũ lụt, dự trữ nước để tưới tiêu
mùa màng trong những đợt hạn hán. Kỹ thuật và quy mô rộng lớn của nó vào loại
hiếm trên thế giới.
Công cụ bằng đá khai quật ở Lương Chử có
đá hình lưỡi liềm, đầu mũi tên, dáo, rìu đục lỗ, dao đục lỗ, đặc biệt là cày đá
và dụng cụ nhổ cỏ được sử dụng, cho thấy nông nghiệp bước vào giai đoạn dùng
cày. Đồ gốm đánh bóng màu đen là đặc điểm của gốm Lương Chử. Trên gốm và ngọc
bích xuất hiện một số lượng lớn các ký tự đơn hoặc nhóm mang chức năng văn bản,
cho thấy giai đoạn bắt đầu hình thành của chữ tượng hình.
Ngọc thạch của văn hóa Lương Chử tiêu biểu
là những vật mang tính lễ nghi có kích thước lớn và được làm một cách tinh xảo,
thường được chạm khắc theo mô dạng thao thiết. Các đồ tạo tác đặc trưng nhất
của văn hóa Lương Chử là tông, tông lớn nhất được khai quật nặng 3,5 kg. Bích và việt cũng được phát hiện. Người ta cũng phát hiện thấy đồ trang sức
làm bằng ngọc thạch dùng để đeo, được trang trí bằng cách chạm khắc các biểu tượng
chim, rùa và cá nhỏ. Nhiều đồ tạo tác làm từ ngọc thạch thuộc văn hóa Lương Chử
có bề ngoài trắng sữa giống như màu xương do có nguồn gốc đá tremolite và ảnh hưởng từ chất lỏng tại điểm mai táng, song cũng thường phát hiện
thấy đồ ngọc thạch làm từ actinolit và serpentin.
Người ta khai quật được một bệ thờ thời
đại đồ đá mới thuộc văn hóa Lương Chử khi khai quật tại Dao Sơn ở Chiết Giang,
chứng minh rằng công trình tôn giáo được xây dựng công phu và các cột đá và tường
đá được đặt cẩn thận: điều này cho thấy tôn giáo đã có tầm quan trọng đáng kể.
Bệ thờ có ba mức, cao nhất là một bục kháng thổ, có thêm ba bục nữa được lát bằng
đá cuội. Vẫn còn lại một bức tường bằng đá. Ở sát bệ thờ có 12 ngôi mộ xếp
thành 2 hàng.
Một bảo tàng Văn hóa Lương Chử mới đã được
hoàn tất vào năm 2008 và mở cửa vào cuối năm đó, nằm tại Hàng Châu.
Các bạn thân mến !
Sự phát lộ của nền văn hóa Lương Chử trước hết
đã là một minh chứng cho việc Hán sử đã cố tình xuyên tạc về các dân tộc bản địa
ở phía Nam sông Dương Tử.
Hán sử luôn rêu rao người Hán ở trung nguyên
là một dân tộc văn minh và ban phát văn minh đó cho các dân tộc xung quanh.
Chưa hết người Hán còn coi các dân tộc xung quanh họ như những Man, Di, Mọi, Rợ.
Vậy mà các di chỉ khảo cổ phát lộ gần đây, đặc biệt là văn hóa Lương Chử lại chứng
minh điều hoàn toàn ngược lại. Chính các dân tộc xung quanh người Hán mới là
các dân tộc bản địa và văn minh, thậm chí ở phía Nam sông Dương Tử còn phát hiện
ra một nền văn hóa rực rỡ là văn hóa Lương Chử, cái nằm hoàn toàn trùng khớp trong
nền văn minh lúa nước của đại chủng Bách Việt trong quá khứ.
Và trong cổ sử Việt cũng có nói về các
vương quốc cổ xưa của tổ tiên chúng ta trong quá khứ. Các bạn hãy cùng kênh
Thái Tử Sin TV thử đối chiếu lời tổ tiên người Việt truyền lại với những dấu vết
khảo cổ đã được tìm thấy gần đây nhé.
Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư
do Ngô Sĩ Liên biên soạn chép: “Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần
Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ
Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí thông
minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục cố nhường cho anh, không
dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc,
phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích
Quỷ.”
Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼) trong huyền sử Việt Nam, là một quốc gia cổ
đại của cư dân Bách Việt, được xem là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt vào đầu thời đại Hồng Bàng. Xích Quỷ cũng là tên một ngôi
sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời.
Trong
cuốn “Ngọc Phả truyền thư” của từ đường họ Nguyễn có giải thích rằng chữ
“Xích” là màu đỏ ngụ ý phương nam, từ “Qủy” là từ chữ Vương của
người Bách Việt, 3 chữ Vương ghép
lại thành chữ “Quỷ”. Đế Thừa là cháu hai đời của Thần Nông (Viêm Đế) có ba
con trai: Đế Minh, Đế Nghi, Đế Long. Ba người con của Đế Thừa đều làm Vương ở 3
phương. Theo “Ngọc Phả truyền thư” thì Kinh Dương Dương là con trai của Đế Minh
(tức Đế vùng phương nam) thấy ba Vương đều là Đế ở ba nơi, nên ghép ba chữ
“Vương” này tạo thành chữ “Quỷ”. Tên “Xích Quỷ” nêu rõ Vương ở phương nam, ngụ
ý nước nam đã có chủ.
Khảo cổ học xác định văn hóa Lương Chử xuất
hiện từ 3300 năm TCN. Trong khi đó truyền thuyết nói Thần Nông sống vào khoảng
3320-3080 năm TCN. Điều này cho thấy sự trùng hợp phải nói là kỳ diệu giữa truyền
thuyết và tài liệu khảo cổ. Việc truyền thuyết ghi Kinh Dương Vương lên ngôi, lập
nhà nước Xích Quỷ vào năm 2879 TCN – hơn 400 năm sau khi văn hóa Lương Chử hình
thành – cho thấy, nhà nước Xích Quỷ ra đời đúng vào thời kỳ rực rỡ của văn hóa Lương Chử.
Khảo cổ học cho thấy lãnh thổ nhà nước
Lương Chử chiếm trọn vẹn lưu vực sông Dương Tử. Phía tây bắc vươn tới Sơn Tây.
Phía Đông Bắc chạm tới vùng Sơn Đông, có bộ phận vượt sông Dương Tử lên bờ Bắc.
Trong khi đó truyền thuyết nói nước Xích Quỷ do vua Kinh Dương Vương cai quản:
bắc tới Hồ Động Đình, đông tới Biển Đông, tây giáp Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn.
Như vậy có thể thấy ranh giới của nhà nước
Lương Chử trong khảo cổ học gần như trùng khớp với ranh giới của vương quốc
Xích Quỷ truyền thuyết.
Chúng ta hãy thử hình dung nhà nước cổ của
người Việt thời đó sẽ như thế nào nhé.
Cho tới 5000 năm trước, trên lục địa Đông Á,
người Việt cổ đã xây dựng nền nông nghiệp phát triển. Do cày được đưa vào trồng
trọt nên năng suất lao động tăng, lương thực dư thừa, kích thích hoạt động thủ
công và thương mại. Một mạng lưới buôn bán ngọc bằng đường biển hình thành, đưa
ngọc được khai thác từ các mỏ ở Đài Loan tới các quốc gia quanh Biển Đông.
Do phải chung tay trị thủy hai dòng sông
Hoàng Hà và Dương Tử nên các bộ tộc nông nghiệp phải liên minh với nhau và nhà
nước cổ đại hình thành từ rất sớm. Thời kỳ này các tộc du mục ở bờ bắc Hoàng Hà
và phía tây tăng cường cướp phá khu vực dân cư nông nghiệp trù phú. Do yêu cầu
chống xâm lăng nên sự liên minh giữa các bộ lạc người Việt, cùng huyết thống,
cùng tiếng nói và văn hóa trở nên chặt chẽ hơn.
Có thể lúc này hai nhà nước cổ đại ra đời:
phía tây là nhà nước Ba Thục gồm vùng đất Ba Thục phía tây Trung Quốc và Thái
Lan, Miến Điện do vị vua thần Can Công lãnh đạo. Ở phần còn lại của Đại Lục cùng
với Đông Dương là nhà nước do Thần Nông trị vì. Vương quốc của Thần Nông rất rộng
lớn, gồm lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Theo tiến trình Bắc tiến của người Việt,
lưu vực sông Dương Tử điều kiện tự nhiên thuận lợi và được khai thác sớm nên có
sự phát triển trước, trở thành trung tâm lớn mạnh về kinh tế, văn hóa, chính trị,
quân sự. Do vị trí đặc biệt của nó nên vùng Lương Chử của Thái Hồ trở thành
kinh đô của các vương triều Thần Nông.
Cho tới giai đoạn này, Hoa tộc chỉ là những
bộ lạc du mục gọi là hậu. Tù trưởng bộ lạc gọi là hậu chủ. Từng đoàn, từng lũ,
man rợ y như các giống du mục khác trên thế giới thời đó, kéo nhau đi tìm đất sống.
Họ xâm nhập đất Bắc Miêu và gặp sự chống cự của cư dân nông nghiệp Miêu tộc, họ
liền họp nhau “công kênh” một hậu chủ hùng mạnh nhất là Hiên Viên lên làm “Cộng
chủ” (chữ của Tư Mã Thiên) để làm người lãnh đạo các hậu. Như vậy có nghĩa là họ
chưa lập quốc, chưa xưng vua, xưng vương, xưng đế gì cả. Họ chỉ là một đám Rợ
du mục cường bạo, dã man mới tập trung lại…
Khoảng năm 2879 trước công nguyên, Đế Minh,
hậu duệ đời thứ 3 của Thần Nông chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi cai quản
lưu vực sông Hoàng Hà và Kinh Dương Vương cai quản lưu vực sông Dương Tử. Như
trong truyền thuyết, Kinh Dương vương lập nước Xích Quỷ, địa giới phía bắc tới sông
Dương Tử, phía đông là Biển Đông, phía Tây giáp Ba Thục và phía nam tới miền
Trung Việt Nam.
Trong thời kỳ này, các bộ lạc du mục
phía bắc tăng cường cướp phá phía nam Hoàng Hà. Tình thế này buộc nhà nước của
Đế Nghi và Kinh Dương Vương, rồi sau này là Đế Lai và Lạc Long Quân tăng cường
vũ trang và liên minh với nhau chống giặc.
Khoảng năm 2750 tr.CN, những vùng đất ở tây
bắc lục địa Đông Á như Tân Cương, Thanh Hải… dần dần bị sa mạc hóa, khiến những
bộ lạc du mục Hoa tộc (các sử gia Tây phương gọi các giống du mục là Savage hay
Barbarian, Rợ… tức là dân tộc dã man, mọi rợ, chưa khai hóa), chuyên chăn nuôi
dê, cừu, heo, bò, ngựa… đang sống rải rác tại đây, phải đi tìm những đồng cỏ mới
cho những đoàn gia súc của họ. Họ đưa thân tộc cùng với những đoàn gia súc, đầy
tớ và đội quân bảo vệ, đi dọc theo nguồn bờ bắc sông Hoàng Hà, mà vào phía bắc
Trung Hoa ngày nay. Họ đã gặp vùng đất cực bắc của nước Xích Thần và người nông
nghiệp Bắc Miêu ở đó.
Du mục Hoa tộc sống thành từng bộ lạc gọi
là Hậu. Mỗi Hậu có Hậu chủ là những ông chủ tham lam, hung bạo với những đội
quân kỵ và bộ, chuyên lo việc xâm chiếm đất đai, trấn áp kẻ địch, bắt nô lệ và
bảo vệ tài sản của Hậu chủ. Các nhóm du mục Hoa tộc thời kỳ này còn rất man rợ,
mà về sau các giống Rợ Trung Á và Châu Âu cũng y hệt.
Rợ Hoa tộc cũng không nằm ngoài bản tính
hung hăng, cường bạo, dã man của xã hội du mục. Trước vùng đất bạt ngàn, đồng
lúa mênh mông… niềm mơ ước của họ, y hệt như dân Do Thái, khi rời khỏi Ai Cập,
tiến vào đất Palestine. Điều đáng nói là trong khi lịch sử các nước kia, đã ghi
lại sự vay mượn văn hóa của các dân tộc mà họ xâm lược, còn Trung Hoa thì thật
là mỉa mai, họ lại viết ngược lại khi cho rằng nền văn hóa mang đâm dấu ấn nông
nghiệp vùng Đông Á là do họ mang tới từ… hai sa mạc Tân Cương, Thanh Hải!!
Vua Đế Minh đã thấy được sự uy hiếp đó đối
với khu vực địa đầu của đất nước. Ông muốn truyền ngôi thiên tử cho Lộc Tục là
con thứ và là con rể của Long quân Hồ Động Đình ở phía nam Trường Giang (sông
Dương Tử) nhằm dựa vào sức mạnh khu vực Hồ Động Đình để bảo vệ vùng đất phía Bắc.
Nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh, không nhận.
Cuối cùng, vua Đế Minh chia lãnh thổ làm hai
vùng. Từ sông Trường Giang trở lên Bắc, gọi là nước Xích Thần, phong cho Đế
Nghi làm tự quân. Từ hồ Động Đình trở về Nam, gọi là nước Xích Quỷ, phong cho Lộc
Tục làm vua, gọi là Kinh Dương Vương, với lời dặn: “Hai nước phải đoàn kết như
keo sơn thì đất nước mới bền vững được”
Theo lời kể của Bác sĩ Trần Đại Sĩ, trưởng
ban Nghiên cứu Phối hợp Đông Tây y tại Pháp, sau chuyến công tác y học ở nam
Trung Hoa 1980, đã viết trên “Việt Nam đệ ngũ thiên niên kỷ” xuất bản tại Mỹ
năm 1994 như sau: Hiện nay ở tả ngạn sông Tương Giang, trong dãy núi Quế Dương
có một ngọn núi cao 179m mang tên là Thiên Đài Sơn, đỉnh tròn, sườn núi thoai
thoải, có đường đi lên. Trên đỉnh có một ngôi miếu hoang phế, rêu phong, không
người ở. Có một tấm bia cổ khắc chuyện vua Đế Minh phong Lộc Tục làm Kinh Dương
Vương và đặt tên nước là Xích Quỷ tại đấy. Ông cho biết, tại thư viện tỉnh Hồ
Nam, ông được đọc một cuốn phổ viết từ thời nhà Đường, do Chu Minh Văn biên soạn,
nói rõ chuyện vua Đế Minh truyền ngôi cho Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ trên
Thiên Đài Sơn và chuyện các quan nhà Đường khi được sai sang cai trị Lĩnh Nam,
đã chung tiền xây ngôi miếu hoặc xuất tiền tu bổ ngôi miếu này. Mỗi lần như thế,
họ tổ chức cúng tế linh đình để cầu xin Đế Minh phù hộ cho họ được bình an cai trị dân Miêu ở
chín quận đô hộ.
Vị trí nước Xích Thần (Bắc Miêu) nằm vắt
ngang sông Hoàng Hà, trải dài xuống phía bắc châu thổ sông Dương Tử, với hàng vạn
bộ tộc nông nghiệp chuyên canh lúa nước, chăn nuôi gia súc như trâu, bò, lợn,
chó, gà, vịt… trồng cây ăn trái, đánh bắt tôm, cá, mò nghêu, lượm sò…
Xã hội Xích Thần theo truyền thống mẫu hệ,
thanh bình, trù phú và hầu như chưa hề biết chiến tranh. Vị vua đương thời là Đế
Lai, con Đế Nghi, cháu nội Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông Viêm Đế. Kinh đô
nước Xích Thần đặt tại Sơn Đông vùng đất có ngọn núi Thái Sơn nổi tiếng, và là vùng đất thuộc nước Lỗ sau này. Vào thời
Chiến quốc, đất này sẽ là nơi sinh của đức Khổng Tử. Danh xưng vua của nước
Xích Thần có ý nghĩa như đại tù trưởng, đại tiên chỉ. Sử gia Trung Hoa Tư Mã
Thiên thì gọi vua nước Xích Thần là thiên Tử.
Nói về sự khác biệt của xã hội Việt tộc
và Hoa tộc sau này, Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (ngoại kỷ quyển 1 tờ 9b) đã bình
luận như sau: “Nước Nam về thời Lạc Hồng vua dân cùng cày, cha con cùng tắm,
người và giống vật cùng ở nhà sàn. Ruộng Lạc điền theo nước triều lên xuống.
Dân đời ấy cùng nhau vui vẻ chơi đùa ở trong cõi đất không rét không nóng. Người
già rồi thì chết, người trẻ đến lúc già không biết gì đến việc đánh nhau. Có thể
gọi là đời chí đức, gọi là nước cực lạc. Vua thì yên vui như tượng Phật. Dân
thì vẽ mình làm ăn, không phiền nhiễu gì đến sưu thuế, không việc gì canh
phòng. Vua dân thân nhau, dẫu vài nghìn năm cũng không thay đổi…”
Xã hội Việt tộc cổ là như vậy, nếu so với uy
quyền của các vua du mục Hoa tộc sau này thì khác hẳn, quyền hành của các vị
vua phong kiến hay chuyên chế của truyền thống du mục vốn rất bạo ngược, thuế
má, sưu dịch nặng nề, chiến tranh chiếm đoạt liên miên lúc nào cũng sẵn sàng xảy
ra…
Khoảng năm 2.720 tr.CN, có nhiều Hậu
du mục Hoa tộc (mỗi Hậu như một bộ lạc có từ một tới vài vạn người) với những
đàn gia súc đông đảo từ vùng Tân Cương, Thanh Hải (đang bị sa mạc hóa) du cư về
phía Đông Nam. Các sử gia Tây phương gọi dân du mục trên thế giới là Savage,
Barbarian tức là Rợ, có nghĩa là thành phần dã man, mọi rợ, chưa khai hóa.
Rợ Hoa tộc tấn công chiếm đoạt đất đai của
nước Xích Thần, bắt dân Miêu Bắc làm nô lệ, cướp đoạt tài sản, hãm hiếp phụ nữ.
Những toán kỵ binh và bộ binh hùng mạnh của họ xông vào các khu cư ngụ Miêu tộc
như vào chỗ không người. Nhiều tù trưởng Miêu tộc quật cường tổ chức chống cự
nhưng đều bị đánh bại.
Trước những đoàn quân thiện chiến, những
đội kỵ binh hung hãn của rợ Hoa tộc, các bộ tộc Bắc Miêu thuộc nước Xích Thần
thua liên tiếp nhiều trận phải rút về phía Nam sông Hoàng Hà. Nhiều đoàn rợ Hoa
tộc nhân đà thắng lợi, họ vượt sông Hoàng Hà đánh tràn xuống phía Nam. Thế nước
Xích Thần mỗi ngày một trở nên nguy ngập.
Để cứu nguy nước Xích Thần, vua Đế Lai đem
công chúa Âu Cơ (một vị nữ tướng) về Nam, đến nước Xích Quỷ (Nam Miêu, Bách Việt)
cầu viện binh đồng thời gả công chúa Âu Cơ cho vua Lạc Long Quân, con vua Kinh
Dương Vương, cháu nội vua Đế Minh. Tổ chức xã hội Xích Quỷ giống xã hội Xích Thần,
tuy nhiên đất nước Xích Quỷ thịnh vượng, dân cư đông đúc, giàu mạnh hơn. Lạc
Long Quân họp dân quân 100 bộ tộc gọi là Liên Minh Xích Quỷ*, chia làm hai
cánh, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Long Quân, một cánh đặt dưới quyền chỉ
huy của Công chúa Âu Cơ.
Chúng ta đã biết hai nhà nước nông nghiệp
Xích Thần và Xích Quỷ thanh bình lâu đời, không có quân đội thường trực. Khi hữu
sự, các vua thường góp dân quân từ các bộ tộc. Cuộc góp quân 100 bộ tộc nước
Xích Quỷ năm 2704 Tr.CN là một cuộc tập họp đại quy mô khiến du mục Hoa tộc rất
lo sợ (con số 100 có ý nói rất nhiều bộ tộc có dạng như nói: trăm họ, muôn dân…
Quân Liên Minh Xích Quỷ, theo vua Đế Lai tiến
lên phía bắc, họp với tàn quân Xích Thần, lập thành một đạo binh rất lớn. Để chứng
tỏ lòng quyết chiến, vua Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng, rồi dẫn đại binh tiến
lên sông Hoàng Hà (sử Tàu ngạo mạn gọi cựu vương Đế Lai là Cổ Thiên tử Xi Vưu).
Thấy quân binh Xích Thần được tiếp viện từ phương Nam tiến lên “đông vô số”, những
Hậu du mục Hoa tộc ở phía nam sông Hoàng Hà vội vã rút lui. Họ lập phòng tuyến
tại Trác Lộc, cách bờ bắc Hoàng Hà vài trăm dặm và cầu cứu các rợ du mục Hoa tộc
khác.
Hội nghị các thủ lĩnh du mục họp ở Tân
Trịnh, họ công kênh thủ lĩnh Hiên Viên họ Hữu Hùng Thị, một Hậu (bộ lạc) hùng mạnh
nhất, lên làm cộng chủ các Hậu Hoa tộc. Cộng chủ liền lãnh đạo quân các Hậu kéo
về Trác Lộc tổ chức ngăn chặn Liên Minh Xích Quỷ.
Quân Liên minh Xích Quỷ sơn mặt đỏ, rất
đông, có tài xử dụng búa. Nhân khi sương mù dày đặc, họ ào ạt tấn công vào
phòng tuyến du mục Hoa tộc rất dữ. Quân du mục bị đánh bất ngờ, hốt hoảng, hàng
ngũ rối loạn, thoát chạy.
Trong nhất thời, quân du mục thua Liên minh
Xích Quỷ. Tuy nhiên, nguyên lực quân sự của họ vẫn hùng mạnh. Chẳng bao
lâu sau, cộng chủ Hiên Viên chế được “xa bàn” để định phương hướng, liền hội
quân các Hậu, tổ chức phản công. Quân du mục vốn là những đạo quân chuyên nghiệp,
được trang bị xa mã và kỵ binh. Họ có tài xử dụng cung và trường thương. Bộ
binh thì to lớn, mặc áo da và đánh cận chiến bằng giáo dài và mã tấu
Quân Liên Minh Xích Quỷ là những nông
dân mới tập họp, ô hợp, thiếu kinh nghiệm và vũ khí chiến đấu. Sau trận đầu
toàn thắng, trở nên khinh địch, lơ là việc phòng bị. Đến khi quân du mục Hoa tộc,
dùng xa bàn khống chế được sương mù và tấn công thì liên minh Xích Quỷ không chống
nổi, hàng ngũ rối loạn, thua lớn. Vua Đế Lai lui quân về phía Đông, lập trại
tại Bản Tuyền. Tại đây, hai bên lại đánh một trận lớn, quân Xích Quỷ lại bị thiệt
hại nặng. Vua Đế Lai tử trận. Liên minh Xích Quỷ hoàn toàn tan vỡ..
Sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp
thế kỷ 13 có nhắc việc: “Vua Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng, rồi lãnh đạo
quân đội đánh nhau với Hiên Viên ở Bản Tuyền. Đế Lai thua trận bị giết”.
Lạc Long Quân dẫn tàn quân theo bờ bắc sông
Hoàng Hà, chạy ra hướng đông. Có lẽ nhà vua định lên cao nguyên Sơn Đông, kinh
đô nước Xích Thần, nơi chưa bị xâm chiếm để cố thủ. Tuy nhiên quân Hoa tộc truy
kích rất dữ, phải chạy ra biển Đông và mất tích*.
Kể từ đấy, nước Xích Thần mất hẳn vào
tay du mục Hoa tộc.
Các bạn thân mến !
Sau khi nước Xích Thần ở phía Bắc sông
Dương Tử bị các tộc du mục xâm lược là đến thời kỳ hình thành các vương quốc cổ
của người Trung Hoa ở vùng Trung Nguyên, còn tại phía Nam sông Dương Tử người Việt đã tạo nên vương quốc Văn Lang với
sự lãnh đạo của các chi nhành Hùng
Vương.
Các chi nhánh Hùng Vương tiếp tục cai trị
lãnh thổ miền Nam sông Dương Tử, tương ứng với vương quốc Xích Quỷ trong vòng
2000 năm. Rồi sau đó dưới áp lực của các vương triều gốc du mục ở phương Bắc,
các vương quốc của người Việt lần lượt bị sụp đổ dần, và phải chịu sự đô hộ của
nhà Tần, Hán trong một thời gian dài. Cuối
cùng sau bao thăng trầm người Việt chỉ còn giữ lại được phần cực Nam của lãnh
thổ nước Văn Lang trong quá khứ.
Mặc dù người Việt đã bị mất phần lớn lãnh thổ cổ xưa vào tay các
tộc người du mục là tổ tiên của các giống người Trung Quốc hiện đại sau này,
nhưng có lẽ ký ức về những lãnh thổ thiêng liêng trong quá khứ vẫn còn hiện hữu
trong tâm thức người Việt Nam rõ nét. Vậy nên người Việt Nam mới có câu ca dao
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng.
Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các
thông báo mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình
lần sau !
Mày ngồi ở congo nhưng mày lại nhận mấy cai kim tự tháp ở sudan là của đồng loại tổ tiên mày.......ngu lắm con ạ
ReplyDelete