Văn Hóa Lương Chử - Văn minh Việt tộc - một minh chứng rõ nét cho sự xuyên tạc của Hán sử Thái Tử Sin TV Monday, September 28, 2020 1 Comment



Văn hóa Lương Chử (3400-2250 TCN) là nền văn hóa ngọc thạch  tại châu thổ sông Trường Giang. Nền văn hóa này có sự phân tầng ở mức độ cao, các đồ tạo tác từ ngọc thạch, tơ lụa, ngà voi được phát hiện trong các ngôi mộ của tầng lớp trên, còn những cá nhân nghèo khó hơn thường được chôn cất cùng với đồ gốm.  

 Di tích khảo cổ Lương Chử minh họa sự chuyển đổi từ các xã hội thời kỳ đồ đá mới sang một mô hình chính trị bao gồm hệ thống phân chia giai cấp, nghi lễ và nghề thủ công.

Nói chung ở đây đã xuất hiện hình thái của một quốc gia với quá trình đô thị hóa được thể hiện trong các di tích bằng đất, hệ thống quy hoạch thành phố và cảnh quan, hệ thống phân cấp xã hội thể hiện ở sự khác biệt về nghi thức chôn cất trong các nghĩa trang. Nền văn hóa này đại diện cho một nền văn minh trồng lúa cổ xưa tại Đông Á ở miền Nam sông Dương Tử hơn 5.000 năm trước. Và  đây cũng một nền văn minh đô thị cổ xưa của nhân loại.

Nền văn hóa Lương Chử sở hữu các hoạt động nông nghiệp tiên tiến, bao gồm thủy lợi, các hình thức ruộng lúa và nuôi thủy sản. Các ngôi nhà của cư dân thường được xây dựng với các cột sàn trên sông hoặc tại bờ biển. Hệ thống trữ nước ngoại vi với các chức năng phức tạp và nghĩa trang được phân cấp xã hội (bao gồm cả bàn thờ) và các vật thể bằng ngọc được khai quật tượng trưng cho tín ngưỡng của nền văn hóa này, chứng minh các dân tộc ở lưu vực sông Dương Tử đã có nền văn minh rất sớm của riêng mình.

Ngày 29 Tháng 11 năm 2007 tại Hàng Châu, các nhà khảo cổ học thông báo đã tìm thấy  di chỉ thành phố cổ diện tích hơn 2,9 km2, niên đại hơn 5.000 năm trong vùng lõi của khu di tích Lương Chử. Thành phố cổ có bức thành theo hướng đông tây dài 1.500-1.700 m, chiều Bắc-Nam khoảng 1.800 - 1.900 mét, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của bức thành còn lại cao 4 mét, mặt cắt 40 mét bề mặt, đáy 60 mét, làm bằng đất hoàng thổ nguyên chất đưa từ nơi khác tới, được đầm nén kỹ. Dấu vết kho lương thực chứa được khoảng 15 tấn gạo. Từ vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ được phát hiện, các chuyên gia tin rằng có những cung điện giành cho nhà vua và giới quý tộc.

Năm 2017, các nhà khảo cổ học lại phát hiện một hệ thống thủy lợi có niên đại tới 5.100 năm, quy mô khổng lồ và cổ xưa nhất trên thế giới tính đến thời điểm hiện nay. Công trình dẫn nước quy mô 5.100 năm tuổi thậm chí còn lâu đời hơn cả phát hiện hệ thống thủy lợi 4.900 năm trước đây của Văn minh Lưỡng Hà. Đây là công trình thủy lợi khổng lồ, có diện tích hơn 300.000 m2, được xây đắp nhân tạo bằng hoàng thổ dày tới 10,2 mét. Những cư dân cổ đại được cho là đã di dời khoảng 3,3 triệu mét khối đất để xây nên công trình này. Đây là một hệ thống thủy lợi rất phức tạp, gồm nhiều đập nước cao, đập nước thấp, mương, rạch, hào lớn và đê điều để ngăn ngừa lũ lụt, dự trữ nước để tưới tiêu mùa màng trong những đợt hạn hán. Kỹ thuật và quy mô rộng lớn của nó vào loại hiếm trên thế giới.

Công cụ bằng đá khai quật ở Lương Chử có đá hình lưỡi liềm, đầu mũi tên, dáo, rìu đục lỗ, dao đục lỗ, đặc biệt là cày đá và dụng cụ nhổ cỏ được sử dụng, cho thấy nông nghiệp bước vào giai đoạn dùng cày. Đồ gốm đánh bóng màu đen là đặc điểm của gốm Lương Chử. Trên gốm và ngọc bích xuất hiện một số lượng lớn các ký tự đơn hoặc nhóm mang chức năng văn bản, cho thấy giai đoạn bắt đầu hình thành của chữ tượng hình.

Ngọc thạch của văn hóa Lương Chử tiêu biểu là những vật mang tính lễ nghi có kích thước lớn và được làm một cách tinh xảo, thường được chạm khắc theo mô dạng thao thiết. Các đồ tạo tác đặc trưng nhất của văn hóa Lương Chử là tông, tông lớn nhất được khai quật nặng 3,5 kg. Bích và việt cũng được phát hiện. Người ta cũng phát hiện thấy đồ trang sức làm bằng ngọc thạch dùng để đeo, được trang trí bằng cách chạm khắc các biểu tượng chim, rùa và cá nhỏ. Nhiều đồ tạo tác làm từ ngọc thạch thuộc văn hóa Lương Chử có bề ngoài trắng sữa giống như màu xương do có nguồn gốc đá tremolite và ảnh hưởng từ chất lỏng  tại điểm mai táng, song cũng thường phát hiện thấy đồ ngọc thạch làm từ actinolit và serpentin.

Người ta khai quật được một bệ thờ thời đại đồ đá mới thuộc văn hóa Lương Chử khi khai quật tại Dao Sơn ở Chiết Giang, chứng minh rằng công trình tôn giáo được xây dựng công phu và các cột đá và tường đá được đặt cẩn thận: điều này cho thấy tôn giáo đã có tầm quan trọng đáng kể. Bệ thờ có ba mức, cao nhất là một bục kháng thổ, có thêm ba bục nữa được lát bằng đá cuội. Vẫn còn lại một bức tường bằng đá. Ở sát bệ thờ có 12 ngôi mộ xếp thành 2 hàng.

Một bảo tàng Văn hóa Lương Chử mới đã được hoàn tất vào năm 2008 và mở cửa vào cuối năm đó, nằm tại Hàng Châu.

 

Các bạn thân mến !

Sự phát lộ của nền văn hóa Lương Chử trước hết đã là một minh chứng cho việc Hán sử đã cố tình xuyên tạc về các dân tộc bản địa ở phía Nam sông Dương Tử.

Hán sử luôn rêu rao người Hán ở trung nguyên là một dân tộc văn minh và ban phát văn minh đó cho các dân tộc xung quanh. Chưa hết người Hán còn coi các dân tộc xung quanh họ như những Man, Di, Mọi, Rợ. Vậy mà các di chỉ khảo cổ phát lộ gần đây, đặc biệt là văn hóa Lương Chử lại chứng minh điều hoàn toàn ngược lại. Chính các dân tộc xung quanh người Hán mới là các dân tộc bản địa và văn minh, thậm chí ở phía Nam sông Dương Tử còn phát hiện ra một nền văn hóa rực rỡ là văn hóa Lương Chử, cái nằm hoàn toàn trùng khớp trong nền văn minh lúa nước của đại chủng Bách Việt trong quá khứ.

Và trong cổ sử Việt cũng có nói về các vương quốc cổ xưa của tổ tiên chúng ta trong quá khứ. Các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV thử đối chiếu lời tổ tiên người Việt truyền lại với những dấu vết khảo cổ đã được tìm thấy gần đây nhé.

Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn chép: “Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra  Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.”

Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼) trong huyền sử Việt Nam, là một quốc gia cổ đại của cư dân Bách Việt, được xem là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt vào đầu thời đại Hồng Bàng. Xích Quỷ cũng là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời. 

 Trong cuốn “Ngọc Phả truyền thư” của  từ đường họ Nguyễn có giải thích rằng chữ “Xích” là màu đỏ ngụ ý phương nam, từ “Qủy” là từ chữ Vương của người Bách Việt, 3 chữ Vương ghép lại thành chữ “Quỷ”. Đế Thừa là cháu hai đời của Thần Nông (Viêm Đế) có ba con trai: Đế Minh, Đế Nghi, Đế Long. Ba người con của Đế Thừa đều làm Vương ở 3 phương. Theo “Ngọc Phả truyền thư” thì Kinh Dương Dương là con trai của Đế Minh (tức Đế vùng phương nam) thấy ba Vương đều là Đế ở ba nơi, nên ghép ba chữ “Vương” này tạo thành chữ “Quỷ”. Tên “Xích Quỷ” nêu rõ Vương ở phương nam, ngụ ý nước nam đã có chủ.

Khảo cổ học xác định văn hóa Lương Chử xuất hiện từ 3300 năm TCN. Trong khi đó truyền thuyết nói Thần Nông sống vào khoảng 3320-3080 năm TCN. Điều này cho thấy sự trùng hợp phải nói là kỳ diệu giữa truyền thuyết và tài liệu khảo cổ. Việc truyền thuyết ghi Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nhà nước Xích Quỷ vào năm 2879 TCN – hơn 400 năm sau khi văn hóa Lương Chử hình thành – cho thấy, nhà nước Xích Quỷ ra đời đúng vào thời kỳ rực rỡ của văn hóa  Lương Chử.

Khảo cổ học cho thấy lãnh thổ nhà nước Lương Chử chiếm trọn vẹn lưu vực sông Dương Tử. Phía tây bắc vươn tới Sơn Tây. Phía Đông Bắc chạm tới vùng Sơn Đông, có bộ phận vượt sông Dương Tử lên bờ Bắc. Trong khi đó truyền thuyết nói nước Xích Quỷ do vua Kinh Dương Vương cai quản: bắc tới Hồ Động Đình, đông tới Biển Đông, tây giáp Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn.

Như vậy có thể thấy ranh giới của nhà nước Lương Chử trong khảo cổ học gần như trùng khớp với ranh giới của vương quốc Xích Quỷ truyền thuyết.

Chúng ta hãy thử hình dung nhà nước cổ của người Việt thời đó sẽ như thế nào nhé.

Cho tới 5000 năm trước, trên lục địa Đông Á, người Việt cổ đã xây dựng nền nông nghiệp phát triển. Do cày được đưa vào trồng trọt nên năng suất lao động tăng, lương thực dư thừa, kích thích hoạt động thủ công và thương mại. Một mạng lưới buôn bán ngọc bằng đường biển hình thành, đưa ngọc được khai thác từ các mỏ ở Đài Loan tới các quốc gia quanh Biển Đông.

Do phải chung tay trị thủy hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử nên các bộ tộc nông nghiệp phải liên minh với nhau và nhà nước cổ đại hình thành từ rất sớm. Thời kỳ này các tộc du mục ở bờ bắc Hoàng Hà và phía tây tăng cường cướp phá khu vực dân cư nông nghiệp trù phú. Do yêu cầu chống xâm lăng nên sự liên minh giữa các bộ lạc người Việt, cùng huyết thống, cùng tiếng nói và văn hóa trở nên chặt chẽ hơn.

Có thể lúc này hai nhà nước cổ đại ra đời: phía tây là nhà nước Ba Thục gồm vùng đất Ba Thục phía tây Trung Quốc và Thái Lan, Miến Điện do vị vua thần Can Công lãnh đạo. Ở phần còn lại của Đại Lục cùng với Đông Dương là nhà nước do Thần Nông trị vì. Vương quốc của Thần Nông rất rộng lớn, gồm lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Theo tiến trình Bắc tiến của người Việt, lưu vực sông Dương Tử điều kiện tự nhiên thuận lợi và được khai thác sớm nên có sự phát triển trước, trở thành trung tâm lớn mạnh về kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự. Do vị trí đặc biệt của nó nên vùng Lương Chử của Thái Hồ trở thành kinh đô của các vương triều Thần Nông.

Cho tới giai đoạn này, Hoa tộc chỉ là những bộ lạc du mục gọi là hậu. Tù trưởng bộ lạc gọi là hậu chủ. Từng đoàn, từng lũ, man rợ y như các giống du mục khác trên thế giới thời đó, kéo nhau đi tìm đất sống. Họ xâm nhập đất Bắc Miêu và gặp sự chống cự của cư dân nông nghiệp Miêu tộc, họ liền họp nhau “công kênh” một hậu chủ hùng mạnh nhất là Hiên Viên lên làm “Cộng chủ” (chữ của Tư Mã Thiên) để làm người lãnh đạo các hậu. Như vậy có nghĩa là họ chưa lập quốc, chưa xưng vua, xưng vương, xưng đế gì cả. Họ chỉ là một đám Rợ du mục cường bạo, dã man mới tập trung lại…

Khoảng năm 2879 trước công nguyên, Đế Minh, hậu duệ đời thứ 3 của Thần Nông chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi cai quản lưu vực sông Hoàng Hà và Kinh Dương Vương cai quản lưu vực sông Dương Tử. Như trong truyền thuyết, Kinh Dương vương lập nước Xích Quỷ, địa giới phía bắc tới sông Dương Tử, phía đông là Biển Đông, phía Tây giáp Ba Thục và phía nam tới miền Trung Việt Nam.

Trong thời kỳ này, các bộ lạc du mục phía bắc tăng cường cướp phá phía nam Hoàng Hà. Tình thế này buộc nhà nước của Đế Nghi và Kinh Dương Vương, rồi sau này là Đế Lai và Lạc Long Quân tăng cường vũ trang và liên minh với nhau chống giặc.

Khoảng năm 2750 tr.CN, những vùng đất ở tây bắc lục địa Đông Á như Tân Cương, Thanh Hải… dần dần bị sa mạc hóa, khiến những bộ lạc du mục Hoa tộc (các sử gia Tây phương gọi các giống du mục là Savage hay Barbarian, Rợ… tức là dân tộc dã man, mọi rợ, chưa khai hóa), chuyên chăn nuôi dê, cừu, heo, bò, ngựa… đang sống rải rác tại đây, phải đi tìm những đồng cỏ mới cho những đoàn gia súc của họ. Họ đưa thân tộc cùng với những đoàn gia súc, đầy tớ và đội quân bảo vệ, đi dọc theo nguồn bờ bắc sông Hoàng Hà, mà vào phía bắc Trung Hoa ngày nay. Họ đã gặp vùng đất cực bắc của nước Xích Thần và người nông nghiệp Bắc Miêu ở đó.

Du mục Hoa tộc sống thành từng bộ lạc gọi là Hậu. Mỗi Hậu có Hậu chủ là những ông chủ tham lam, hung bạo với những đội quân kỵ và bộ, chuyên lo việc xâm chiếm đất đai, trấn áp kẻ địch, bắt nô lệ và bảo vệ tài sản của Hậu chủ. Các nhóm du mục Hoa tộc thời kỳ này còn rất man rợ, mà về sau các giống Rợ Trung Á và Châu Âu cũng y hệt.

Rợ Hoa tộc cũng không nằm ngoài bản tính hung hăng, cường bạo, dã man của xã hội du mục. Trước vùng đất bạt ngàn, đồng lúa mênh mông… niềm mơ ước của họ, y hệt như dân Do Thái, khi rời khỏi Ai Cập, tiến vào đất Palestine. Điều đáng nói là trong khi lịch sử các nước kia, đã ghi lại sự vay mượn văn hóa của các dân tộc mà họ xâm lược, còn Trung Hoa thì thật là mỉa mai, họ lại viết ngược lại khi cho rằng nền văn hóa mang đâm dấu ấn nông nghiệp vùng Đông Á là do họ mang tới từ… hai sa mạc Tân Cương, Thanh Hải!!

Vua Đế Minh đã thấy được sự uy hiếp đó đối với khu vực địa đầu của đất nước. Ông muốn truyền ngôi thiên tử cho Lộc Tục là con thứ và là con rể của Long quân Hồ Động Đình ở phía nam Trường Giang (sông Dương Tử) nhằm dựa vào sức mạnh khu vực Hồ Động Đình để bảo vệ vùng đất phía Bắc. Nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh, không nhận.

Cuối cùng, vua Đế Minh chia lãnh thổ làm hai vùng. Từ sông Trường Giang trở lên Bắc, gọi là nước Xích Thần, phong cho Đế Nghi làm tự quân. Từ hồ Động Đình trở về Nam, gọi là nước Xích Quỷ, phong cho Lộc Tục làm vua, gọi là Kinh Dương Vương, với lời dặn: “Hai nước phải đoàn kết như keo sơn thì đất nước mới bền vững được”

Theo lời kể của Bác sĩ Trần Đại Sĩ, trưởng ban Nghiên cứu Phối hợp Đông Tây y tại Pháp, sau chuyến công tác y học ở nam Trung Hoa 1980, đã viết trên “Việt Nam đệ ngũ thiên niên kỷ” xuất bản tại Mỹ năm 1994 như sau: Hiện nay ở tả ngạn sông Tương Giang, trong dãy núi Quế Dương có một ngọn núi cao 179m mang tên là Thiên Đài Sơn, đỉnh tròn, sườn núi thoai thoải, có đường đi lên. Trên đỉnh có một ngôi miếu hoang phế, rêu phong, không người ở. Có một tấm bia cổ khắc chuyện vua Đế Minh phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương và đặt tên nước là Xích Quỷ tại đấy. Ông cho biết, tại thư viện tỉnh Hồ Nam, ông được đọc một cuốn phổ viết từ thời nhà Đường, do Chu Minh Văn biên soạn, nói rõ chuyện vua Đế Minh truyền ngôi cho Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ trên Thiên Đài Sơn và chuyện các quan nhà Đường khi được sai sang cai trị Lĩnh Nam, đã chung tiền xây ngôi miếu hoặc xuất tiền tu bổ ngôi miếu này. Mỗi lần như thế, họ tổ chức cúng tế linh đình để cầu xin Đế Minh  phù hộ cho họ được bình an cai trị dân Miêu ở chín quận đô hộ.

Vị trí nước Xích Thần (Bắc Miêu) nằm vắt ngang sông Hoàng Hà, trải dài xuống phía bắc châu thổ sông Dương Tử, với hàng vạn bộ tộc nông nghiệp chuyên canh lúa nước, chăn nuôi gia súc như trâu, bò, lợn, chó, gà, vịt… trồng cây ăn trái, đánh bắt tôm, cá, mò nghêu, lượm sò… 

Xã hội Xích Thần theo truyền thống mẫu hệ, thanh bình, trù phú và hầu như chưa hề biết chiến tranh. Vị vua đương thời là Đế Lai, con Đế Nghi, cháu nội Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông Viêm Đế. Kinh đô nước Xích Thần đặt tại Sơn Đông vùng đất có ngọn núi Thái Sơn nổi tiếng, và  là vùng đất thuộc nước Lỗ sau này. Vào thời Chiến quốc, đất này sẽ là nơi sinh của đức Khổng Tử. Danh xưng vua của nước Xích Thần có ý nghĩa như đại tù trưởng, đại tiên chỉ. Sử gia Trung Hoa Tư Mã Thiên thì gọi vua nước Xích Thần là thiên Tử.  

Nói về sự khác biệt của xã hội Việt tộc và Hoa tộc sau này, Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (ngoại kỷ quyển 1 tờ 9b) đã bình luận như sau: “Nước Nam về thời Lạc Hồng vua dân cùng cày, cha con cùng tắm, người và giống vật cùng ở nhà sàn. Ruộng Lạc điền theo nước triều lên xuống. Dân đời ấy cùng nhau vui vẻ chơi đùa ở trong cõi đất không rét không nóng. Người già rồi thì chết, người trẻ đến lúc già không biết gì đến việc đánh nhau. Có thể gọi là đời chí đức, gọi là nước cực lạc. Vua thì yên vui như tượng Phật. Dân thì vẽ mình làm ăn, không phiền nhiễu gì đến sưu thuế, không việc gì canh phòng. Vua dân thân nhau, dẫu vài nghìn năm cũng không thay đổi…”

Xã hội Việt tộc cổ là như vậy, nếu so với uy quyền của các vua du mục Hoa tộc sau này thì khác hẳn, quyền hành của các vị vua phong kiến hay chuyên chế của truyền thống du mục vốn rất bạo ngược, thuế má, sưu dịch nặng nề, chiến tranh chiếm đoạt liên miên lúc nào cũng sẵn sàng xảy ra…

Khoảng năm 2.720 tr.CN, có nhiều Hậu du mục Hoa tộc (mỗi Hậu như một bộ lạc có từ một tới vài vạn người) với những đàn gia súc đông đảo từ vùng Tân Cương, Thanh Hải (đang bị sa mạc hóa) du cư về phía Đông Nam. Các sử gia Tây phương gọi dân du mục trên thế giới là Savage, Barbarian tức là Rợ, có nghĩa là thành phần dã man, mọi rợ, chưa khai hóa.

Rợ Hoa tộc tấn công chiếm đoạt đất đai của nước Xích Thần, bắt dân Miêu Bắc làm nô lệ, cướp đoạt tài sản, hãm hiếp phụ nữ. Những toán kỵ binh và bộ binh hùng mạnh của họ xông vào các khu cư ngụ Miêu tộc như vào chỗ không người. Nhiều tù trưởng Miêu tộc quật cường tổ chức chống cự nhưng đều bị đánh bại.

 

Trước những đoàn quân thiện chiến, những đội kỵ binh hung hãn của rợ Hoa tộc, các bộ tộc Bắc Miêu thuộc nước Xích Thần thua liên tiếp nhiều trận phải rút về phía Nam sông Hoàng Hà. Nhiều đoàn rợ Hoa tộc nhân đà thắng lợi, họ vượt sông Hoàng Hà đánh tràn xuống phía Nam. Thế nước Xích Thần mỗi ngày một trở nên nguy ngập.

Để cứu nguy nước Xích Thần, vua Đế Lai đem công chúa Âu Cơ (một vị nữ tướng) về Nam, đến nước Xích Quỷ (Nam Miêu, Bách Việt) cầu viện binh đồng thời gả công chúa Âu Cơ cho vua Lạc Long Quân, con vua Kinh Dương Vương, cháu nội vua Đế Minh. Tổ chức xã hội Xích Quỷ giống xã hội Xích Thần, tuy nhiên đất nước Xích Quỷ thịnh vượng, dân cư đông đúc, giàu mạnh hơn. Lạc Long Quân họp dân quân 100 bộ tộc gọi là Liên Minh Xích Quỷ*, chia làm hai cánh, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Long Quân, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Công chúa Âu Cơ.

Chúng ta đã biết hai nhà nước nông nghiệp Xích Thần và Xích Quỷ thanh bình lâu đời, không có quân đội thường trực. Khi hữu sự, các vua thường góp dân quân từ các bộ tộc. Cuộc góp quân 100 bộ tộc nước Xích Quỷ năm 2704 Tr.CN là một cuộc tập họp đại quy mô khiến du mục Hoa tộc rất lo sợ (con số 100 có ý nói rất nhiều bộ tộc có dạng như nói: trăm họ, muôn dân…

Quân Liên Minh Xích Quỷ, theo vua Đế Lai tiến lên phía bắc, họp với tàn quân Xích Thần, lập thành một đạo binh rất lớn. Để chứng tỏ lòng quyết chiến, vua Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng, rồi dẫn đại binh tiến lên sông Hoàng Hà (sử Tàu ngạo mạn gọi cựu vương Đế Lai là Cổ Thiên tử Xi Vưu). Thấy quân binh Xích Thần được tiếp viện từ phương Nam tiến lên “đông vô số”, những Hậu du mục Hoa tộc ở phía nam sông Hoàng Hà vội vã rút lui. Họ lập phòng tuyến tại Trác Lộc, cách bờ bắc Hoàng Hà vài trăm dặm và cầu cứu các rợ du mục Hoa tộc khác.

Hội nghị các thủ lĩnh du mục họp ở Tân Trịnh, họ công kênh thủ lĩnh Hiên Viên họ Hữu Hùng Thị, một Hậu (bộ lạc) hùng mạnh nhất, lên làm cộng chủ các Hậu Hoa tộc. Cộng chủ liền lãnh đạo quân các Hậu kéo về Trác Lộc tổ chức ngăn chặn Liên Minh Xích Quỷ.

Quân Liên minh Xích Quỷ sơn mặt đỏ, rất đông, có tài xử dụng búa. Nhân khi sương mù dày đặc, họ ào ạt tấn công vào phòng tuyến du mục Hoa tộc rất dữ. Quân du mục bị đánh bất ngờ, hốt hoảng, hàng ngũ rối loạn, thoát chạy.

Trong nhất thời, quân du mục thua Liên minh Xích Quỷ. Tuy nhiên, nguyên lực quân sự của họ vẫn hùng mạnh. Chẳng bao lâu sau, cộng chủ Hiên Viên chế được “xa bàn” để định phương hướng, liền hội quân các Hậu, tổ chức phản công. Quân du mục vốn là những đạo quân chuyên nghiệp, được trang bị xa mã và kỵ binh. Họ có tài xử dụng cung và trường thương. Bộ binh thì to lớn, mặc áo da và đánh cận chiến bằng giáo dài và mã tấu

Quân Liên Minh Xích Quỷ là những nông dân mới tập họp, ô hợp, thiếu kinh nghiệm và vũ khí chiến đấu. Sau trận đầu toàn thắng, trở nên khinh địch, lơ là việc phòng bị. Đến khi quân du mục Hoa tộc, dùng xa bàn khống chế được sương mù và tấn công thì liên minh Xích Quỷ không chống nổi, hàng ngũ rối loạn, thua lớn. Vua Đế Lai lui quân về phía Đông, lập trại tại Bản Tuyền. Tại đây, hai bên lại đánh một trận lớn, quân Xích Quỷ lại bị thiệt hại nặng. Vua Đế Lai tử trận. Liên minh Xích Quỷ hoàn toàn tan vỡ..

Sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp thế kỷ 13 có nhắc việc: “Vua Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng, rồi lãnh đạo quân đội đánh nhau với Hiên Viên ở Bản Tuyền. Đế Lai thua trận bị giết”.  

Lạc Long Quân dẫn tàn quân theo bờ bắc sông Hoàng Hà, chạy ra hướng đông. Có lẽ nhà vua định lên cao nguyên Sơn Đông, kinh đô nước Xích Thần, nơi chưa bị xâm chiếm để cố thủ. Tuy nhiên quân Hoa tộc truy kích rất dữ, phải chạy ra biển Đông và mất tích*.

Kể từ đấy, nước Xích Thần mất hẳn vào tay du mục Hoa tộc.

Các bạn thân mến !

Sau khi nước Xích Thần ở phía Bắc sông Dương Tử bị các tộc du mục xâm lược là đến thời kỳ hình thành các vương quốc cổ của người Trung Hoa ở vùng Trung Nguyên, còn tại phía Nam sông Dương Tử  người Việt đã tạo nên vương quốc Văn Lang với sự lãnh đạo của các  chi nhành Hùng Vương.

Các chi nhánh Hùng Vương tiếp tục cai trị lãnh thổ miền Nam sông Dương Tử, tương ứng với vương quốc Xích Quỷ trong vòng 2000 năm. Rồi sau đó dưới áp lực của các vương triều gốc du mục ở phương Bắc, các vương quốc của người Việt lần lượt bị sụp đổ dần, và phải chịu sự đô hộ của nhà Tần, Hán trong một thời gian dài.   Cuối cùng sau bao thăng trầm người Việt chỉ còn giữ lại được phần cực Nam của lãnh thổ nước Văn Lang trong quá khứ.  

Mặc dù người Việt  đã bị mất phần lớn lãnh thổ cổ xưa vào tay các tộc người du mục là tổ tiên của các giống người Trung Quốc hiện đại sau này, nhưng có lẽ ký ức về những lãnh thổ thiêng liêng trong quá khứ vẫn còn hiện hữu trong tâm thức người Việt Nam rõ nét. Vậy nên người Việt Nam mới có câu ca dao

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con

Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các thông báo mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau !

 

by Thái Tử Sin

Chào mừng các bạn đến với kênh website Thái Tử Sin TV. - $$$ DONATE: Mọi ủng hộ tài chính để phát triển kênh Thái Tử Sin TV vui lòng gửi tới tài khoản Techcombank: 19021947007023 - Chủ TK: Nguyen Thi Lang

Theo dõi trên các nền tảng khác Twitter | Facebook | Google Plus

1 comment :

  1. Mày ngồi ở congo nhưng mày lại nhận mấy cai kim tự tháp ở sudan là của đồng loại tổ tiên mày.......ngu lắm con ạ

    ReplyDelete