Suryavarman II là một vị vua của Đế quốc
Chân Lạp, trị vì trong khoảng thời gian từ năm 1113 tới năm 1150 . Thành tựu rực
rỡ của ông trong nhiều lĩnh vực đã khiến cho nhiều học giả xếp Suryavarman II
là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử của Campuchia.
Tuy nhiên, ông ta đã phạm phải một sai lầm
to lớn khi đưa quân đi xâm chiếm Đại Việt, và cuối cùng đã phải nhận một kết cục
bi thảm.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV
đi tìm hiểu về sự kiện lịch sử này nhé !
Vua Chân Lạp Suryavarman II
Dưới triều đại của Suryavarman II, ở
kinh đô Angkor, ngôi đền lớn nhất Angkor Wat đã được xây dựng trong khoảng thời
gian 37 năm. Angkor Wat là nơi thờ thần Vishnu.
Đế quốc Chân Lạp dưới thời vua
Suryavarman II trị vì đã bành trướng và xâm lược hầu hết các tiểu quốc ở Đông
Nam Á lục địa.
Vương quốc Haripunjaya của dân tộc Môn (ngày
nay là miền Trung Thái Lan) đã bị Suryavarman II thôn tính.
Đế quốc Chân Lạp còn tiến xa hơn về phía tây
để xâm chiếm vương quốc Pagan (nay là Myanmar).
Về phía nam, Suryavarman II cũng cho quân
xâm lấn đến vương quốc Grahi thuộc khu vực bán đảo Malay (nay là tỉnh Nakhon Si
Tham marat của Thái Lan). Về phía đông, nhiều vùng lãnh thổ của vương quốc
Champa cũng bị sáp nhập vào đế quốc Chân Lạp.
Về phía bắc, các vùng đất song song với Đại
Việt, đến tận biên giới phía bắc của Lào ngày nay cũng bị Suryavarman II thôn
tính.
Tham vọng bành trướng lãnh thổ của vua
Suryavarman II hầu như không có điểm dừng. Đại Việt cũng nằm trong sự nhòm ngó
của vị vua hiếu chiến này.
Năm 1128, vua Lý Nhân Tông nước Đại Việt
mất, thọ 63 tuổi, ở ngôi 56 năm. Trước đó, Lý Nhân Tông vì không có con nối ngôi
nên lập cháu là Lý Dương Hoán, con trai của Sùng Hiền Hầu làm thái tử. Thái tử
khi lên ngôi chỉ mới 12 tuổi, tức là vua Lý Thần Tông. Khi tin tức nước Đại Việt
có vua còn nhỏ tuổi đến tai hoàng đế Chân Lạp Suryavarman II, ông ta cho rằng
đây là thời cơ nên đã hòa hoãn với Champa để dồn sức tấn công Đại Việt.
Tháng 2 năm 1128, 2 vạn quân Chân Lạp sang
đánh Đại Việt, tiến đến bến Ba Đầu, châu Nghệ An. Bấy giờ, xứ Nghệ An là địa
phương trong yếu phía nam của Đại Việt, nên sự bố phòng rất cẩn trọng.
Dựa vào sự chuẩn bị sẵn từ trước, quân dân
Nghệ An đã cố gắng chống trả lại địch và cấp báo về triều đình. Vua Lý Thần
Tông bèn sai Nhập nội thái phó Lý Công Bình thống lĩnh cấm binh tiến về nam, phối
hợp với quân của châu Nghệ An đánh dẹp. Lý Công Bình chỉ trong vòng chưa đầy 1
tháng đã đánh tan tác quân Chân Lạp, bắt sống được tướng Chân Lạp đem về báo tiệp.
Chiến thắng này cho thấy rằng những toan tính của vua Suryavarman II đã sai lầm
nghiêm trọng. Dù Đại Việt thời này có ấu chúa, nhưng lại có rất nhiều đại thần
tài đức phò tá và căn cơ trong nước đã rất vững vàng sau nhiều đời minh quân
cai trị.
Bị thua đau nên chỉ 6 tháng sau, tức
tháng 8 năm 1128, một đạo quân Chân Lạp khác với quy mô lớn hơn lại tiến sang.
Lần này, quân Chân Lạp đi đường biển đến đánh hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An (
nay là huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh), với lực lượng gồm hơn 700 chiến thuyền và
hàng vạn quân lính. Vốn đã có đề phòng trước, triều đình Thăng Long cử Nguyền
Hà Viêm cầm quân phủ Thanh Hóa, Dương Ổ cầm quân châu Nghệ An phối hợp đón
đánh, phá được quân Chân Lạp.
Hình ảnh quân đôi Chân Lạp khắc trong đền Angkor
Sau thất bại này, vua Suryavarman II lại muốn
dùng biện pháp ngoại giao để lấy lại thể diện và tỏ rõ vị thế nước lớn của
mình, nên mới sai người trao quốc thư cho châu Nghệ An để gởi trình lên cho vua
Lý Thần Tông, yêu cầu Đại Việt cử sứ giả sang Chân Lạp. Trước sự hống hách của
vua Chân Lạp, Hoàng Đế Đại Việt Lý Thần Tông không thèm trả lời thư. Đây là một
thông điệp rất rõ ràng rằng nước Đại Việt không hề sợ nước Chân Lạp, dù cho thời
bấy giờ Chân Lạp đang là một đế quốc rộng lớn đã tiêu diệt và khuất phục nhiều
quốc gia tại Đông Nam Á khác.
Lại nói đến nước Champa kể từ năm 1113
trở đi thường phải chịu sự cướp phá của quân đội Chân Lạp. Khi vua Jaya
Indravarman III lên ngôi năm 1129, nước Champa đã rơi vào cảnh nội chiến khi mà
xứ Panduranga ở phương nam ra mặt ly khai với triều đình Vijaya, nên đã liên
minh với Chân Lạp đánh phá miền bắc Champa. Cuộc chiến này kéo dài bất phân thắng
bại do người Champa phần lớn ủng hộ triều đình Vijaya khiến cho liên quân Chân
Lạp – Panduranga dù đông mạnh hơn nhưng không thể dứt điểm được.
Do đó, vua Chân Lạp Suryavarman II dùng uy
thế bắt triều đình Vijaya phải chịu thuần phục. Không còn con đường nào tốt
hơn, vua Jaya Indravarman III buộc phải chấp nhận. Đến mùa thu năm 1132, vua Chân
Lạp lại quyết định đánh Đại Việt, lệnh cho vua Champa phải đem binh thuyền theo
hỗ trợ. Liên quân Chân Lạp – Champa lần này theo đường biển lại vào đánh Nghệ
An. Quân dân phủ Thanh Hóa đã cùng quân dân châu Nghệ An chặn giặc. Đến khi
Thái úy Dương Anh Nhĩ dẫn quân triều đình đến phối hợp, quân Đại Việt thắng thế
và đánh bại liên quân Chân Lạp và Champa.
Năm 1135, Chân Lạp lại đổi thái độ và cử
sứ giả đến Đại Việt. Nhưng chỉ hai năm sau vào năm 1137, khi Thái úy Dương Anh
Nhĩ đã mất, vua Suryavarman II lại sai tướng Phá Tô Lăng đem quân tấn công nước
Đại Việt và lệnh cho Champa cử quân phối hợp. Thế nhưng triều đình Champa lúc
này đã quá mệt mỏi vì chiến tranh nên đã không tuân lệnh. Rốt cuộc chỉ có mỗi
quân Chân Lạp tham chiến. Tướng Phá Tô Lăng đem quân vào đánh châu Nghệ An. Người
của châu này chạy trạm báo tin, vua Lý Thần Tông phái Thái úy Lý Công Bình dẫn
quân vào đánh. Vẫn như những lần trước, quân Chân Lạp không thể địch nổi sức mạnh
của quân Đại Việt. Tướng Phá Tô Lăng bại trận phải lui quân. Từ đó, Chân Lạp vì
kiêng nể Đại Việt mà không dám tùy tiện động binh.
Năm 1143, lấy cớ vua Jaya Indravarman III
không tuân lệnh điều binh giúp Chân Lạp đánh Đại Việt, vua Suryavarman II đem
quân tấn công Champa. Vua Jaya Indravarman III đã lãnh đạo người Chăm chiến đấu
quyết liệt, cuộc chiến kéo dài dai dẳng. Đến năm 1145, Jaya Indravarman III bị
mất tích trong một trận chiến với quân Chân Lạp. Triều thần tôn hoàng thân
Parabrahman lên ngôi, lấy hiệu là Rudravarman IV. Lúc này nước Champa đã kiệt
quệ, Rudravarman IV phải chịu nhận sắc phong của vua Chân Lạp và mất gần hết
quyền cai trị đất nước. Không lâu sau, Rudravarman IV phải cùng con trai là
Sivanandana và các triều thần bỏ thành Vijaya chạy sang Đại Việt lánh nạn. Quân
Chân Lạp chiếm đóng Vijaya và thiết lập nền cai trị trực tiếp trên toàn bộ lãnh
thổ nước Champa.
Chiến tranh Chân Lạp - Champa
Sau đó với sự hỗ trợ của Đại Việt,
Rudravarman IV bí mật trở về xứ Panduranga rồi băng rừng lên cao nguyên, dựa
vào cộng đồng người Thượng nơi đây phát động khởi nghĩa chống quân Chân Lạp.
Nhiều người Thượng, người Chăm hay tin lần lượt theo về để chống lại sự cai trị
hà khắc của nước Chân Lạp. Năm 1147, vua Rudravarman IV mất vì bệnh, hoàng thái
tử Sivanandana lên nối ngôi, lấy hiệu là Jaya Harivarman I để tiếp tục cuộc
kháng chiến chống quân Chân Lạp. Quân khởi nghĩa của Jaya Harivarman I ngày
càng lớn mạnh, dần chiếm lại được xứ Panduranga và kinh thành Vijaya, khôi phục
lại chủ quyền nước Champa trên phần lớn lãnh thổ.
Vua Chân Lạp chỉ còn kiểm soát một số vùng đất
phía bắc Champa. Nhưng tham vọng bành trướng và nỗi hận thua trận vẫn chưa
nguôi trong lòng vị vua hiếu chiến này. Bấy giờ nước Đại Việt đang trên đà suy
yếu sau khi vua Lý Thần Tông mất năm 1138. Vua Lý Anh Tông còn nhỏ tuổi, mẹ là
Lê Thái hậu giữ quyền nhiếp chính, tin dùng gian thần Đỗ Anh Vũ. Trong nước từ
năm 1140 tới năm 1141 đã nổ ra cuộc nổi dậy của Thân Lợi, khiến cho quan quân
nhà Lý phải vất vả đánh dẹp. Tình hình đó một lần nữa khơi dậy mong muốn xâm
lăng Đại Việt của Suryavarman II.
Năm 1150, quân Chân Lạp lại tiến đánh Đại
Việt, với lực lượng gồm cả thủy bộ và tượng binh. Nhưng cuộc hành quân này của
Chân Lạp lại còn thê thảm hơn những lần trước. Sử Việt chép rằng đoàn quân Chân
Lạp xâm lược Đại Việt khi đến núi Vụ Thấp (thuộc Nghệ An) đã gặp lam chướng, nắng
nóng ẩm thấp mà chết rất nhiều, tự tan rã. Nhiều khả năng đã có một dịch bệnh
bùng phát trong quân Chân Lạp. Cũng trong năm này, vua Suryavarman II chết. Cho
đến nay, cái chết của bạo chúa này vẫn là một bí ẩn chưa có lời giải. Có nhiều
lập luận cho rằng vua Suryavarman II đã chết trong cuộc hành quân đánh Đại Việt.
Các bạn thân mến !
Năm lần xâm lược Đại Việt của đế quốc Chân Lạp
dưới thời vua Suryavarman II đều thất bại thảm hại là do thời kỳ này Đại Việt đang
vươn lên hùng cường, với không ít nhân tài phò vua giúp nước.
Nước Chân Lạp dù cho đất rộng dân đông, có
thể liên tiếp động binh không ngừng nghỉ nhưng mô hình nhà nước và quân đội của
họ không cho phép tổ chức những đạo quân khổng lồ như các quốc gia phương bắc,
và mức độ thiện chiến của quân Chân Lạp thì kém xa quân đội Đại Việt.
Chiến thắng của Đại Việt trước đế quốc
Chân Lạp một lần nữa minh chứng cho truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất
của dân tộc Việt Nam.
Khi quân dân đồng lòng, vua tôi đoàn kết
thì người Việt có thể đánh bại đươc bất cử kẻ thù nào cho dù là hùng mạnh nhất
thế giới như đế quốc Mông Cổ hay hùng mạnh nhất khu vực như đế quốc Chân Lạp
trong thời kỳ này.
No Comment