Áo tấc, hay còn gọi là áo ngũ thân tay thụng, áo lễ hoặc
áo thụng, là một trang
phục truyền
thống của Việt Nam. Áo tấc được mặc cùng với quần dài, che thân từ cổ đến
hoặc quá đầu gối và dành cho cả nam lẫn nữ với
cổ đứng cài cúc bên phải của người mặc, tà áo chắp từ năm mảnh vải, tương tự áo
ngũ thân tay chẽn nhưng tay dài và thụng.
Đây là loại lễ phục trang trọng thời nhà Nguyễn và sau
này, tương tự như áo Vest ngày
nay. Cái tên "áo tấc" xuất phát từ phần viền áo rộng đúng 1 tấc (4
cm).
Áo tấc được xuất hiện từ những cải cách y phục của
Chúa Nguyễn Phúc Khoát tại 2 xứ Thuận Hóa và Quảng Nam xưa.
Trong Đại Nam thực lục chép: “Chúa cho rằng lời sấm
nói tám đời trở lại trung đô , bèn thay đổi y phục, thay phong tục, cùng dân đổi
mới; châm chước chế độ các đời, định triều phục văn võ, văn từ quản bộ đến
chiêm hậu, huấn đạo; võ từ chưởng dinh đến cai đội, mũ sức vàng bạc, áo dùng
Mãng bào hoặc gấm đoạn theo cấp bậc. Thế là văn vật một phen đổi mới.”
Dã sử lược biên Đại Việt Quốc Nguyễn Triều thực lục
ghi lại: “Chúa cho rằng lời sấm cổ có nói tám đời quay lại trung đô, tính từ thời
Thái Tổ đến nay vừa đúng con số ấy, bèn thay y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi
mới, bắt đầu hạ lệnh cho các nam nữ sĩ thứ trong nước , đều mặc áo nhu bào, mặc
quần, vấn khăn. tục gọi quần chân áo chít bắt đầu từ đây.”
Trong chỉ hơn 30 năm thì cải cách đã có ảnh hưởng sâu
rộng đến 2 vùng Chúa trị và người dân đều đã quen dần, bước đầu cho sự phổ biến
này. Tiếp đến sự thành lập của nhà Nguyễn và những sắc lệnh thống nhất y phục
trong toàn quốc của hoàng đế Minh Mạng vào các năm 1828, 1829, 1830, 1832,
1837, 1842 đã khiến áo dài năm thân, tiền thân của áo tấc lan đến khắp làng xã
trong cả nước trở thành loại áo từ thường dân đến thiên tử đều có thể mặc vào
các dịp trang nghiêm từ các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ, cũng như các việc
thăm viếng quan trọng.
Tùy theo tầng lớp mà trên áo sẽ được thêu long, phượng,...
hay hoa, lá,... hoặc thậm chí là áo trơn. Chất liệu cũng tùy vào bối cảnh của
người mặc mà thay đổi.
Áo ngũ thân che kín thân mình không để hở áo lót. 2 vạt
trước ghép viền, nối thành sống áo theo trục tung từ cổ thẳng xuống đuôi áo. 2
vạt sau cũng nối sống lại với nhau (vị chi thành 4) tượng trưng cho tứ ân phụ mẫu
(bên chồng, bên vợ), và vạt con phía tay
phải nằm trong vạt trước chính là thân thứ 5, tượng trưng cho chính người mặc
áo.
Vạt con nối với 2 vạt sau nhờ cổ áo có bâu đệm, và
khép kín nhờ 5 chiếc khuy, tượng trưng cho ngũ thường theo quan niệm Nho giáo
(Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) và ngũ hành theo triết học Đông phương (Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ). Trong sinh hoạt thường ngày, người đàn ông mặc áo chẽn tay để
thuận tiện, nhưng trong nghi lễ trang trọng người ta sẽ mặc áo tay thụng, chính
là áo tấc. Khăn vấn hình chữ Nhân, hoặc chữ Nhất, tượng trưng cho nhân nghĩa,
lòng nhân, sự cương trực, nhất tâm được đặt lên hàng đầu.
Với cách thiết kế của người Việt như vậy, khi ngồi xuống
ghế tràng kỷ, 2 chân để dạng bằng vai, 2 vạt trước và vạt trong của áo phủ trùm
lên hai đầu gối tạo ra sự bề thế, đường vệ, uy nghi mang phong thái một đấng
nam nhi quân tử.
No Comment